Thứ bảy, 14 Tháng 3 2009 09:32
Có một câu thành ngữ đã quá quen thuộc “Do the right things and then do the things right“ có nghĩa là “Bạn hãy làm đúng việc rồi sau đó hãy làm đúng cách”. Và một trong những quy luật đã quá quen thuộc “Trong kinh doanh nếu bạn xác định đúng mục tiêu bạn sẽ tiết kiệm khoảng được 80% thời gian để đi đến thành công“ - đó là quy luật Pareto 80/20.

80/20 là gì?
Vào năm 1897, Vilfredo Pareto, một nhà kinh tế học người Ý, trong khi đang học về sự phân bố của cải và thu nhập tại nước Anh trong thế kỷ 19, đã phát hiện ra, phần lớn diện tích đất đai và thu nhập được kiểm soát bởi một lượng nhỏ số người trong xã hội. Trên thực tế, 20% dân số kiểm soát đến 80% của cải và thu nhập. Trong những phân tích và nghiên cứu tiếp theo, nhà kinh tế học huyền thoại này đã phát hiện ra rằng, nguyên tắc này không chỉ đúng trong nhiều
Quốc Gia, giai đoạn lịch sử mà còn đúng với những gì xảy ra ngay trong khu vườn ông ta. Ở đây, ông ta thấy được, chỉ 20% cây đậu Hà Lan ông trồng đã cho ra đến 80% hạt đậu mà ông thu hoạch được.

Vậy vấn đề đặt ra là 20% việc chúng ta làm tạo ra 80% kết quả nhưng 80% công việc còn lại chỉ tạo được 20% kết quả cuối cùng mà thôi. Chúng ta đang phí phạm 80% thời gian của mình vào những việc kém hiệu quả. Theo Richard Koch (Tác giả series sách về quy luật 80/20): “Nguyên lý 80/20 không phải là một công thức huyền bí gì. Nhiều khi mối quan hệ giữa kết quả và nguyên nhân gần tỉ lệ 70/30 hơn là 80/20. Nhưng có một thực tế là ít khi nào xảy ra trường hợp 50% các nguyên nhân dẫn đến 50% kết quả. Chúng ta có thể thấy được vũ trụ này không cân đối, không cân bằng. Một thiểu số lại đóng một vai trò trọng yếu”.

Tôi có một người bạn làm trưởng phòng kinh doanh, mới đây sau khi đọc cuốn “Quy luật vàng 80/20”, anh ta nhận ra rằng những gì cuốn sách viết nếu đem vào ứng dụng tại phòng anh ta thì đúng đây là tỉ lệ thần thánh trong kinh doanh. Và anh ta bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân. Khoảng 20% nhân viên làm việc hiệu quả và chiếm khoảng 80% doanh số. Vậy là anh ta bắt đầu kích thích khả năng làm việc của 80% nhân viên còn lại và kết quả thu được là hình như mọi thứ vẫn như cũ. Một nguyên nhân sâu xa là do cách phân công công việc “những công việc quan trọng hay những khách hàng lớn thì đều được chăm sóc bởi những nhân viên giỏi và thế là họ chiếm hầu hết doanh số”. Anh ta cũng kiểm nghiệm chỉ có khoảng 17% khách hàng đem lại hầu hết lợi nhuận trong công ty. Trong khi, 83% số khách hàng hiện tại chẳng những không đem lại nhiều lợi nhuận mà đôi khi còn khiến anh ta mệt mỏi. Và kết luận được đưa ra là “thượng đế đã sắp đặt thế thì chẳng cần cải thiện gì cả và nó là quy luật rồi”. Trong quá trình đi dạy tôi cũng nhận ra rằng hầu như chỉ có khoảng 20% sinh viên chiếm 80% câu hỏi trong lớp học.

Tập trung vào “làm những việc đúng”
Theo Richard Koch, “Quy luật 80/20” có thể giải phóng bạn. Bạn có thể làm việc ít hơn mà vẫn có thể kiếm nhiều lợi nhuận hơn, vui vẻ và nhàn nhã hơn. Trong cuốn “22 quy luật bất biến của marketing“ có một quy luật về “người dẫn đầu”. Bạn hãy trở thành người dẫn đầu để chiếm 80% thị phần. Trên thị trường, có rất nhiều chủng loại sản phẩm mà ở đây, 20% thương hiệu đứng đầu chiếm đến 80% thị phần. Đó cũng chính là lý do vì sao Tập đoàn GE có lúc đã bán đi tất cả thương hiệu mà họ có chỉ một lý do đó không phải là những thương hiệu đứng đầu hay đứng thứ hai. Trong kinh doanh nói chung và marketing nói riêng, tập trung luôn là một vấn đề cốt lõi và cần thiết để thành công. Cho dù đó là một thành công về thị phần, doanh thu hay sự phát triển dài hạn trong tương lai.

Nếu là người lãnh đạo, bạn cần phải tập trung vào 20% công việc mà qua đó, bạn có thể đảm bảo định hướng được cho 80% công việc còn lại diễn ra suôn sẻ. Nếu không, bạn sẽ lọt vào mớ bòng bong, làm quá nhiều nhưng chẳng thứ nào ra hồn và rốt cuộc là tiêu tiền một cách vô ích. Nếu không làm đúng cách, bạn sẽ chẳng nhận được kết quả gì, mà một số trường hợp còn là con số âm. Ưu tiên hóa và tập trung nguồn lực là công thức đã được chứng minh rất thành công trong nhiều năm qua.

Bạn thường đọc một cuốn sách như thế nào? Từ trang này sang trang khác? Như vậy, bạn đang lãng phí rất nhiều thời gian của chính mình. Thông thường, 80% những thông tin có giá trị nhất gói gọn trong 20% nội dung của quyển sách. Nếu bạn đọc một quyển sách hay tài liệu để giải trí, bạn hãy thử đọc mục lục và phần giới thiệu đầu tiên. Sau đó, là phần kết luận trước khi sang chương đầu, xem qua các biểu đồ, hình vẽ nếu có. Quay lại phần kết luận một lần nữa và có thể xem chi tiết vài phần bạn cảm thấy thật sự thú vị. Với cách đọc như vậy, bạn sẽ nắm được nội dung chính yếu nhất của quyển sách. Trong thế giới tràn ngập những thông tin quá tải như hiện nay, việc rèn luyện và tuân thủ theo quy luật 80/20 là cấp thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, hãy nhìn nhận quy luật này và ứng dụng nó trong việc thay đổi nhận thức của bạn.

Nếu bạn được một người đưa cho một tờ giấy trắng có một vết mực trên đó. Bạn sẽ nghĩ gì nhỉ? “Ồ, có một vết mực!”, chính là bạn đã hoàn toàn quên đi vết mực đó nhỏ nhoi trong một tờ giấy phần rất lớn trắng tinh. Nếu bạn phải tiếp 10 người khách, tám người nói chuyện rất vui và thú vị, còn một hoặc hai người cứ thích cãi nhau và làm ta bực bội. Nếu người khác hỏi bạn về buổi tiếp khách, chắc bạn sẽ trả lời: “Không vui lắm, có một người cứ thích cãi lại và luôn làm tôi bực”. Hiếm người sẽ trả lời: “Hôm đó thật tuyệt, hầu như mọi người đều nói chuyện rất vui và tôi thật sự thích thú!”.

Điều này có nghĩa gì? Đó chính là quy luật 80/20, chúng ta thường chú trọng và quan tâm vào 20% tồi tệ và ít để ý đến 80% điều tốt đẹp kia, hoặc ít nhất để 20% điều tồi tệ ảnh hưởng đến suy nghĩ của ta. Ta sẽ tận hưởng cuộc sống một cách thú vị hơn nếu chú ý vào những điều tốt đẹp và ít để tâm đến những chuyện nhỏ làm ta không vui.

(Theo Tạp chí Marketing)

http://vnbrand.net/Kien-thuc-kinh-doanh/quy-luat-8020.html


 
  10/03/2012 06:01
(HNM) - Theo các nhà nghiên cứu cổ sử, hình ảnh người cầm cờ tín hiệu trên mũi thuyền cong khắc trên trống đồng Đông Sơn có thể là dấu hiệu của truyền tin bằng hiệu cờ. Quanh thành Cổ Loa hiện vẫn còn di tích các "hỏa đài", đây cũng là những di chỉ thể hiện cách thông tin thời xưa.

Dưới thời Lý Công Uẩn, các lệnh dụ, chiếu chỉ của vua, chức sắc trong triều ban ra, lập tức do một đội quân từ Thăng Long chuyển đến các phủ, huyện và hồi âm cũng theo đường dây đó trở lại Thăng Long. Khi Lý Thái Tôn lên ngôi (1028-1054), vị vua này bắt đầu đặt ra các nhà trạm. Để thuận tiện cũng như bảo đảm sức khỏe cho phu, năm 1043, vua Lý Thái Tôn đã phân chia các đường quan lộ ra từng cung, mỗi cung đặt một nhà trạm gọi là cung dịch hay trạm dịch. Phu từ Thăng Long đến trạm dịch đầu tiên, họ bàn giao công văn giấy tờ rồi quay trở về và trạm này có trách nhiệm tổ chức phu chuyển đến trạm kế tiếp, cứ thế cho đến khi lệnh dụ, chiếu chỉ đến được nơi nhận. Ngược lại, báo cáo của các phủ, huyện cũng theo các trạm dịch này để tới triều đình.


Dù chỉ cai quản Đại Việt trong 7 năm nhưng Hồ Quý Ly (1400-1407), đã có nhiều cải cách quan trọng, trong đó cho mở thêm đường cái quan thuận tiện cho giao thông liên lạc. Khi Lê Lợi tập hợp các hào mục kháng chiến chống quân Minh xâm lược (1418) thì Trần Nguyên Hãn lúc đó còn đi bán dầu và ông nuôi đôi chim bồ câu, dạy chúng đưa thư. Đến Lam Sơn phò Lê Lợi, ông đã mang theo đôi chim câu này. Lúc đang đóng quân ở thành Võ Ninh thì bị quân Minh vây chặt, Trần Nguyên Hãn đã viết thư gửi Lê Lợi rồi buộc vào chân chim. Nhờ thư do chim câu mang đến Lê Lợi biết được tình hình nguy cấp của Trần Nguyên Hãn, cho quân tiếp viện đến Võ Ninh phá vỡ vòng vây giải cứu. Sau khi đánh tan giặc Minh, vào thành Thăng Long và lên ngôi vua, mở ra triều đại nhà Lê, việc đầu tiên là ông tổ chức lại hệ thống liên lạc khá chặt chẽ. Trên các quan lộ có 54 cung dịch, các cung dịch này được xây tường gạch, xung quanh có hào nước, 4 góc có chòi canh. Mỗi trạm được biên chế 12 người, trong đó 10 phu là những người khỏe mạnh, một là đội phu và một phó đội cùng với 4 con ngựa lúc nào cũng trong tư thế chuẩn bị lên đường. Lính trạm ăn mặc như dân thường nhưng khi đi công vụ, phu trạm đeo lúc lắc đồng và qua làng mạc, họ lắc lên để dân biết mà tránh đường. Qua đò phà, phu trạm được ưu tiên đi trước. Nếu không cần gấp, phu sẽ đi bộ, còn nếu công văn khẩn thì họ đi ngựa. Với giấy tờ mà quan phê hai chữ hỏa tốc, phu trạm sẽ cầm một nắm lông gà hay bó đuốc cháy dở để làm hiệu cho mọi người dừng lại, dạt sang bên đường. Nếu mang tin chiến thắng về kinh đô thì phu trạm sẽ mang theo lá cờ hồng.


Bưu điện Hà Nội ngày nay. Ảnh: Nhật Nam Đến triều Nguyễn, trạm dịch tăng lên rất nhiều. Tên trạm được xác định bằng cách ghép tên tỉnh với tên thôn nơi đặt trạm. Dưới triều vua Minh Mạng (1820-1841), trên địa bàn Hà Nội có hai trạm là Hà Trung (ở thôn Yên Trung, tổng Tiền Nghiêm, sau đổi thành Vĩnh Xương, huyện Thọ Xương, nay là phố Hà Trung, quận Hoàn Kiếm). Trạm thứ hai nằm ngay bên đường làng Hoàng Mai là trạm Hà Mai (nay là phường Hoàng Mai, quận Hoàng Mai). Triều Nguyễn coi phu trạm là viên chức, được hưởng lương như lính và chịu sự quản lý của Bộ binh. Công văn đựng trong ống tre, hai đầu có buộc giấy gắn nhựa thông, đóng triện nên gọi là ống công văn. Phu trạm được phát hỏa bài và khi đi công vụ, họ đeo trên cổ báo hiệu đi gấp. Hỏa bài làm bằng gỗ sơn trắng viền đỏ có khắc chữ mỗ huyện hỏa bài, nhờ đó mà công việc truyền tin có nhiều tiến bộ và chuyên nghiệp hơn. Từ Huế ra Hà Nội hơn 700 cây số nhưng phu chỉ đi 8 ngày 8 đêm là đến nơi.

Ngoài trạm dịch, các triều đại phong kiến còn dùng hình thức truyền tin khác. Theo truyền thuyết, trên đỉnh núi Bài Thơ (tên cũ gọi là "Núi truyền đăng" hay "Núi rọi đèn" ở Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh), nơi đây có phiến đá lớn dùng làm chỗ đốt lửa báo hiệu khi có biến ở biên thùy. Với cách này, các đồn binh thấy lửa cháy trên núi sẽ chuyển tiếp thông tin về triều đình để vua quan kịp thời ứng phó. Thế kỷ XVII, thời Trịnh - Nguyễn phân tranh vẫn sử dụng cách đốt lửa. Nguyễn Hữu Dật, một tướng giỏi nhà Nguyễn cũng xin lập "lạp đài" ở các cửa biển Quảng Bình để báo tin cho nhanh.


Năm 1882, thực dân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ hai. Để phục vụ cho việc thống trị và liên lạc năm 1884, Pháp đã lập Bưu cục Hà Nội cùng với các bưu cục Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây và Ninh Bình, đồng thời cho xóa bỏ trạm dịch Hà Trung và Hà Mai. Tuy nhiên, bưu cục đầu tiên do người Pháp mở ra tại Việt Nam không phải ở Hà Nội mà ở Sài Gòn. Ngày 11-4-1860, viên đại úy thủy quân Pháp là Daniel đã mở bưu cục đầu tiên ở Việt Nam nhưng bưu cục chỉ dùng cho binh lính trong quân đội Pháp. Ngày 17-3-1862, quân đội Pháp tại Sài Gòn khánh thành đường dây thép (sau này gọi là hữu tuyến) đầu tiên ở Việt Nam là Sài Gòn - Biên Hòa. Ngay sau đó, bức điện tín đầu tiên được đánh đi từ Biên Hòa lúc 6h53 và 3 phút sau ở Sài Gòn, tướng Bonard nhận được. Ngày 31-1-1863, thực dân Pháp khánh thành Bưu điện Sài Gòn nhưng chỉ để cho chính quyền sử dụng. Đến năm 1864, cùng với việc phát hành tem thư đầu tiên ở Nam kỳ, chính quyền cũng cho phép người dân sử dụng dịch vụ bưu chính. Thời kỳ này cả khu Sài Gòn - Gia Định chỉ có một bưu tá. Mỗi ngày bưu tá đi 2 chuyến xe ngựa chuyển thư, ông ta dõng dạc kêu tên chủ nhà và trao thư rất trịnh trọng.


Hoạt động của Bưu cục Hà Nội và bưu cục một số tỉnh ở Bắc kỳ chủ yếu là nghiệp vụ bưu chính, chuyển thư từ và công văn. Trước đó, năm 1883, người Pháp đã phát hành con tem đầu tiên ở Việt Nam có hình chim phượng hoàng, biểu tượng của Hoàng đế Napoleon Đệ tam. Việc sử dụng tem hạn hẹp, chỉ trong công sở, giới quan chức và số ít người giàu có, còn người nghèo không có nhu cầu. Một con tem trong nước giá 4 xu, giá một tiếng điện báo là 6 xu trong khi một cân gạo giá 3 xu. Năm 1886, Toàn quyền Đông Dương cho phát hành con tem đầu tiên dùng cho Nam kỳ và đến năm 1889 phát hành tem dùng chung cho ba nước Đông Dương. Cuối năm 1884, Pháp cho xây đường dây hữu tuyến Hà Nội - Sài Gòn dài gần 4.000km và hoàn thành vào năm 1888. Cũng trong thời kỳ này, họ xây dựng đường dây Hà Nội - Hải Phòng. Năm 1888 thông tin điện báo được thiết lập giữa Hà Nội với Sài Gòn, Vinh, Huế và Đà Nẵng. Năm 1889, Bưu điện Hà Nội có đầy đủ từ bưu chính, điện báo đến điện thoại. Làm việc trong bưu điện chủ yếu là người Pháp hoặc người ở các nước thuộc địa của Pháp. Nhân viên người Việt Nam hầu hết là người vào "làng tây", cai hoặc lính đã giải ngũ và dù được tin tưởng nhưng họ vẫn phải tuyên thệ trước tòa sơ thẩm. Lời tuyên thệ của mỗi người được ghi vào biên bản tòa án và lưu trong hồ sơ cá nhân. Nội dung như sau: "Tuyệt đối giữ bí mật những điều đọc được ở bức điện công hay tư, một công văn hay một bức thư. Nghe được cuộc điện thoại không nói cho ai biết dù là đồng nghiệp. Nếu vi phạm bí mật sẽ bị phạt tù". Lương của nhân viên người Việt chỉ bằng một phần mười, thậm chí một phần hai mươi so với nhân viên người Pháp.


Năm 1901, việc xây dựng nhà Bưu điện Trung tâm Hà Nội nằm ngay bên Hồ Gươm (người dân gọi là Bưu điện Bờ Hồ) hoàn thành.


(Còn nữa)



Nguyễn Ngọc Tiến
 
20.1.2007 Peter Reichel 
François-Guillaume Lorrain thực hiện
Nguyễn Đình Thành dịch  

Lời người dịch: Đã 51 năm trôi qua kể từ khi chủ nghĩa Quốc xã chấm dứt sự tồn tại chính thức của mình, nhưng những vấn đề mà nó gây ra vẫn tiếp tục trở thành đề tài thu hút sự chú ý của công luận trên toàn thế giới, đặc biệt sau khi những tài liệu mật của Liên Xô trước đây về chủ nghĩa Quốc xã được giải mật. Đã có cả chục bộ phim, hàng chục tiểu thuyết và khảo luận về Hitler và các nhân vật chủ chốt của chủ nghĩa Quốc xã mà gần đây nhất là cuốn Các nữ thần báo oán của Jonathan Littell (giải Goncourt 2006). Tuần báo Le point của Pháp đã dành một chuyên đề để nói đến hệ thống SS và hấp lực của cái Ác tuyệt đối – chủ nghĩa Quốc xã. Sau đây là một bài trích dịch trong số các bài viết ấy.

Dưới đây là bài phỏng vấn ông Peter Reichel, giáo sư khoa học chính trị tại trường Đại học Hamburg, tác giả của cuốn Hấp lực của chủ nghĩa Quốc xã. (NXB Odile Jacob) do François-Guillaume Lorrain thực hiện  


*

Tại sao chủ nghĩa Quốc xã (CNQX) lại hấp dẫn đến vậy?

Một sự hấp dẫn hay nói như Thomas Mann "một sự ngưỡng mộ kinh tởm" nào đó. CNQX đã đưa chính trị vào hai phạm trù vừa đối lập vừa bổ sung cho nhau, đó là khủng bố và thẩm mỹ, nhất thiết phải nối hai đặc điểm này với nhau. Đó là cái mà tôi gọi là bản chất hai mặt của nền độc tài. Một mặt là sự bùng vỡ bạo lực tội ác, mặt khác là sự sản sinh ra một vẻ ngoài được tô điểm, dối trá và ảo tưởng. Bởi CNQX, cái đã dựng nên một nhà nước không luật pháp và một hệ thống cai trị tàn bạo, không thể sống sót được nếu chỉ dựa trên một chế độ khủng bố và hủy diệt. Nó không những cần phải làm cho người ta sợ mà còn phải quyến rũ, làm choáng ngợp, làm mê hoặc, sản sinh ra cái đẹp và những tặng thưởng mang tính biểu trưng. Đó là ý nghĩa của sự thần bí hóa chính trị - tôn giáo của Führer - Quốc trưởng, của những cuộc huy động quần chúng được tổ chức hoàn hảo, những dàn dựng mang tính ái kỷ của dân tộc Đức và của cái mà họ cho là sự thống nhất dân tộc. Dù gì đi nữa, ý thức hệ Quốc xã vẫn cần phải được cụ thể hóa, được minh họa. Đó là một thứ ý thức hệ dựa trên hình ảnh và sự đối lập sắc nét giữa "người được chọn" và "người bị gạt bỏ", giữa "thân xác lành mạnh" và "thân xác bệnh hoạn", "người thanh khiết" và "người uế tạp"… Bên cạnh việc gây ra hàng loạt cuộc chiến, CNQX còn châm ngòi cuộc chiến tuyên truyền. Bản thân CNQX đã là một bộ máy khổng lồ sản sinh ra sự sùng bái và do đó là sự mù quáng. Một trong những ví dụ rõ ràng nhất là bộ phim về trại tập trung Theresienstadt mang tên Quốc trưởng đã trao cho dân Do Thái một thành phố. Bằng việc che giấu sự thật, Đảng Quốc xã đã thành công trong việc dùng cái Ác tuyệt đối tạo nên một tác phẩm tạo cảm giác cho công chúng là người Do Thái đang được đối xử tử tế.

Hãy đi sâu vào các chi tiết. Theo ông sự hấp dẫn này có những đặc điểm gì chính?

Một tên tội phạm vĩ đại luôn là hình tượng gặt hái được nhiều thành công trong lịch sử vì nó là hiện thân của quỷ dữ, vị bán thần làm cho người ta vừa sợ vừa thích. Về mặt này, không có gì cấm kị khi nhìn nhận Đệ tam Đế chế như một thiên truyện trinh thám chính trị li kì. Điều hấp dẫn không kém trong CNQX chính là những kỹ thuật tân kì và các yếu tố thẩm mỹ hiện đại, sự triển khai trên quy mô hoành tráng máy bay, ô tô, tên lửa và thiết bị chiến tranh. Ở đây có một trong những nghịch lý của CNQX, một chế độ quyết liệt chống hiện đại nhưng đồng thời cũng triển khai nhiều yếu tố đánh dấu tiến bộ kỹ thuật của thời đại chúng ta. Chúng ta cũng không nên đánh giá thấp hấp lực khiêu dâm của lý tưởng về hình thể và về phân biệt chủng tộc của người Homo SS với mái tóc vàng, bộ quân phục đen. Sartre, trong cuốn Chết trong tâm hồn xuất bản năm 1949 đã quan sát kỹ yếu tố này khi ông miêu tả trạng thái rối loạn ác dâm-tự hành hạ của một thanh niên Pháp khi nhìn đoàn quân Đức tiến vào Paris: "Tim hắn đập thình thịch và hắn nhìn họ… Họ lướt nhìn qua hắn bằng ánh mắt vô cảm và sau họ còn những người khác nữa đang tới, những thiên thần khác. Hắn thì thầm: ‘Họ mới đẹp làm sao!… Những thiên thần của sự căm thù và tức giận. Đây rồi những người thẩm phán mới, đây rồi luật pháp mới!’. Không còn tỉnh táo nữa, hắn hổn hển đôi chút, lẩm bẩm: ‘Vào thun thút, họ thun thút đi vào Paris, họ sẽ cho chúng ta đau [1] , tuyệt quá!’".

Cái hấp lực xưa giờ có còn tác dụng?

Tất nhiên là vẫn còn. Điều nổi bật nhất đó là, văn hóa Quốc xã là một nền văn hóa thị giác có sức hấp dẫn lớn hơn văn bản. Ấy vậy mà, cho đến nay chúng ta vẫn còn miêu tả lịch sử Quốc xã chủ yếu qua hình ảnh. Tất nhiên có những tác phẩm đáng chú ý như Đêm và sương mù của Resnais, Shoah của Claude Lanzmann, nhưng hiện chúng ta đang phải chịu đựng cả một núi tác phẩm thường ở mức dưới trung bình về chủ đề này. Chúng nuôi dưỡng sức hấp dẫn của CNQX và cản trở việc hiểu con người thật của Hitler vào thời điểm đó, tức là một gương mặt chính trị-lịch sử không phải từ trên trời rơi xuống. Sau khi miêu tả Hitler như quỷ dữ và do đó đẩy ông ta xa chúng ta đến mức tối đa, xu hướng hiện nay đang theo chiều ngược lại. Người ta tiến lại gần Hitler, gần nhất có thể được, biến ông ta thành một nhân vật riêng, tách khỏi chính trị. Những điều cấm kị dần dần biến mất, các nhận định giờ đây được đưa ra không còn khoảng cách, không còn mang tính suy nghĩ hay đạo đức. Điều này cũng đúng với Goebbels hay Albert Speer. Người ta đang làm thỏa mãn một cách thấp hèn nhu cầu của giới trẻ và của công chúng, những người muốn được giải trí như trên ti vi: người ta đưa ra những hình tượng nhân vật bị tối giản như những nhân vật được đề cập đến trong các talk-shows hay các chương trình truyền hình cuộc sống thực (télé-réalité). Những nhân vật quan trọng của chúng ta nay được giới thiệu trong những khung cảnh riêng tư nhất của đời họ. Không còn bối cảnh lịch sử. Trong bộ phim Das Goebbels-Experiment phát hành tại Đức năm 2005, nhân vật Goebbels được miêu tả như một con người hoang tưởng tự đại và tự thương hại mình. Còn về Speer, câu hỏi thực sự đặt ra là: ông ta có biết gì về người Do Thái hay không? Thế mà bộ phim nói về ông ta lại có tựa đề Hitler und er (Hitler và ông ta). Trong phim này, các con của Speer, những người chủ chốt, lại tránh trả lời câu hỏi này. Về phần Hitler, trong bộ phim La chute – tạm dịch Trượt dốc - phát hành ở Pháp năm 2005, Hitler hiện lên trong phim như một người hấp hối thống khổ. Cái boong-ke trở thành trung tâm thế giới trong khi phim không hề nhắc đến giai đoạn cuối của Auschwitz cùng thời điểm đó hay cuộc hành quyết những người kháng chiến năm 1945 ở Plötzensee. Bộ phim La chute do một người tự cho là mình hiểu rõ lịch sử Đệ tam Đế chế thực hiện và khẳng định là mình đã hoàn thành một "sứ mệnh lịch sử". Đây là một lời lăng nhục đối với nhiều nạn nhân, những người vào thời điểm năm 1945 đang phải chịu một kết cục bi thảm. Tất cả những bộ phim này đều dẫn đến sự tầm thường hóa mà Jean Amery, nhà triết học người Do Thái tại Áo sống sót ở trại Auschwitz, đã tiên đoán: "Đệ tam Đế chế của Hitler sẽ chỉ đơn giản là Lịch sử trong một thời gian nữa. Không tệ hơn cũng không tốt hơn những thời kì đen tối khác. Một đế chế khát máu, hẳn rồi. Nhưng nó cũng có cuộc sống thường nhật của mình. Hitler, Himmler, Heydrich sẽ trở thành những cái tên so sánh được với Napoléon, Robespierre hay Saint Just".


Bản tiếng Việt © 2007 talawas


[1]
Nguyên văn: Ils vont nous faire du Mal - người ta sẽ mang lại cái Ác cho chúng ta. Chữ "mal" không viết hoa trong thành ngữ này thì có nghĩa «làm cho người ta đau, hành hạ ai đó», một liên tưởng đến chứng bạo dâm của người thanh niên trong truyện. Vì không tìm được giải pháp chuyển nghĩa trọn vẹn nên chúng tôi chọn dịch là "làm cho chúng ta đau".
Nguồn:
Le point 09/11/06 - N°1782 - trang 118 
 
Pierre Bourdieu và xã hội học giáo dục
Đăng ngày: 18:07 23-10-2008
tác giả: Nguyễn Khánh Trung


Pierre Bourdieu (1920 – 2002) là một nhà triết học, một nhà xã hội học, một trí thức lớn của Pháp trong thời hiện đại. Tư tưởng của ông ảnh hưởng rất đậm trong giới khoa học xã hội và nhân văn nói chung và xã hội học nói riêng tại Pháp từ sau Ðệ nhị thế chiến. Ông là nhà phê bình xã hội một cách khoa học và sắc bén, bóc trần thực tại xã hội, công kích giai cấp nắm quyền với những kỹ thuật nhằm củng cố trật tự xã hội, duy trì sự thống trị của họ. Tư tưởng của ông đối lập với những ai muốn đống phục và bao cấp tư tưởng người khác.

Bourdieu đã đề cập đến những vấn đề nan giải trong xã hội học như Xã hội học là gì ? Xã hội là gì ? Trật tự xã hội được duy trì và tái tạo thế nào ? Nó thay đổi ra sao ? Vị trí của cá nhân trong xã hội thế nào ? Ông đã đi tìm trả lời cho những câu hỏi trên thông qua nhiều lĩnh vực từ hội hoạ văn chương đến văn hoá, tôn giáo, giới tính và giáo dục…

Chúng tôi cố gắng giới thiệu các tư tưởng về giáo dục vì nhận thấy tư tưởng của ông có thể giúp chúng ta suy nghĩ về bản chất của nền giáo dục Việt Nam, cũng như cội rễ những vấn đề mà chúng ta đang gặp phải. Cố gắng này cũng mong góp phần nhỏ vào sự phát triển của chuyên ngành xã hội học giáo dục vốn đang rất khiêm tốn ở nước ta hiện nay.

Giáo dục không phải là đối tượng nghiên cứu ưu tiên hàng đầu của P. Bourdieu, thế nhưng những tác phẩm của ông cộng tác với Jean - Claude Passeron đã nổi tiếng trong giới nghiên cứu về giáo dục tại Pháp nói riêng và trên thế giới nói chung, cũng như phổ biến rộng rãi trong quần chúng bình dân. Theo Vincent Troger[1], có ba lý do chính có thể cất nghĩa sự thành công của Bourdieu trong lĩnh vực giáo dục. Thứ nhất, ông đã “gặp thời” khi xuất bản công trình của mình về đề tài này, Des Héritiers (Minuit, 1964) và La Reproduction (Minuit, 1970) đã ra đời đúng thời điểm mà cuộc đấu tranh của sinh viên đòi thay đổi hiện trạng giáo dục đang đến hồi đỉnh điểm (cuộc cách mạng giáo dục tháng 5 năm 1968 tại Pháp). Lý do thứ hai, những phân tích này đồng thuận với những lý luận của các phong trào tranh đấu của các công đoàn trong lĩnh vực giáo dục vào thời điểm đó tại Pháp. Lý do thứ ba quan trọng nhất là tính chặt chẽ, khúc chiết và mạnh mẽ trong cách lý luận của ông đã tác động sâu đậm trên các nhà nghiên cứu và ngay cả với giới giáo chức trong hệ thống giáo dục Pháp.

Những ảnh hưởng

P. Bourdieu đã thừa kế, chịu ảnh hưởng của các lý thuyết khác nhau, nhưng ông đã nỗ lực vượt qua những giới hạn của các lý thuyết truyền thống này, đặc biệt là mâu thuẫn giữa các cặp khái niệm như chủ nghĩa khách quan/ chủ nghĩa chủ quan; biểu trưng/vật chất; lý thuyết/thực nghiệm, vv.

Trước hết, ông ảnh hưởng nhà sáng lập xã hội học người Pháp E. Durkheim trong cách tiếp cận vấn đề và lối lý luận về chức năng của giáo dục cho rằng nhà trường là địa bàn giúp củng cố và tái tạo trật tự xã hội. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của câu hỏi “thế nào “ hơn là “cái gì” khi đặt vấn đề nghiên cứu. Nghĩa là ông chú trọng nghiên cứu quá trình hình thành các hiện tượng xảy ra thế nào hơn là tìm cách giải thích bản chất chúng. Ông cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của quá trình xã hội hoá (socialisation) trong quá trình hình thành “tập tính” (Habitus) của cá nhân (chúng tôi sẽ trở lại khái niệm này trong phần sau) trong đó nhà trường đóng vai trò hết sức quan trọng.

Bourdieu cũng chịu ảnh hưởng từ K. Marx, ông cho rằng xã hội được cấu thành bởi các giai cấp khác nhau và đấu tranh lẫn nhau nhằm sở hữu các loại vốn, không những chỉ là vốn kinh tế mà còn là vốn bằng cấp, vốn quan hệ xã hội. Khái niệm “thống trị” (domination) cũng được sử dụng và mổ xẻ rất nhiều trong các tác phẩm của Bourdieu. Tuy nhiên, sự phân định giai cấp không những thể hiện qua thước đo kinh tế, phương tiện sản xuất mà nó thể hiện trong mọi chi tiết của cuộc sống thường nhật, ví như qua cách thức chọn nước để uống, chọn quần áo để mặc, qua ngôn từ sử dụng vv. Những điều như vậy không chỉ phản ánh « tập tính » của cá nhân, mà còn phản ánh tập tính của môi trường, gốc gác xã hội mà cá nhân sống. K. Marx và Engels cho rằng : « giáo dục tư bản là phương tiện thống trị của giai cấp tư sản gắn kết chặt chẽ với Giáo Hội trong Nhà nước » (trích bởi Lê Thành Khôi, 1991, tr. 86), trong hệ thống giáo dục này, Marx xem các giáo viên như những người « nguy hiểm » vì họ được bố trí bởi giai cấp nắm quyền, đóng vai trò như những người phát ngôn viên, những người diễn dịch ý thức hệ của giai cấp thống trị cho giai cấp bị trị. Cũng tương tự, Bourdieu khẳng định nhà trường tại Pháp vào thời điểm ông nghiên cứu và viết các tác phẩm về giáo dục vẫn là phương tiện của giai cấp cầm quyền, đội ngũ giáo viên là những người mang “văn hoá” và “tập tính” của giai cấp này, và như vậy, nhà trường vẫn là nơi củng cố trật tự xã hội có lợi cho giai cấp cai trị.

Cũng như M. Weber, Bourdieu cho rằng khi phân tích sự kiện xã hội, phải đặt mình vào vị trị của đối tượng được điều tra, phải nhìn và hiểu sự kiện với con mắt của những người trong cuộc. Ngược lại với E. Durkheim và K. Marx, Bourdieu không cho rằng môi trường xã hội nói chung và giáo dục nói riêng ảnh hưởng tuyệt đối lên cá nhân. Cũng như Weber, ông tin rằng cá nhân có tự do, có ý thức và chủ động khi lựa chọn những quyết định vv.

Đương nhiên, Bourdieu không phải là học trò trung thành của các tiền bối đi trước, ông thừa kế họ để phát triển lý thuyết riêng của mình. Chúng tôi sẽ làm rõ hơn những điều riêng của ông trong khi bàn đến một số khái niệm chính trong lý thuyết của ông về giáo dục.





Tập tính và trường học



Khái niệm “tập tính” (habitus) đã được E. Durkheim sử dụng khi bàn đến “các xã hội truyền thống” và “chế độ nội trú[2], ám chỉ những thái độ, hành vi cử chỉ mà cá nhân đã sở đắc một cách ổn định, lâu dài trong xã hội cổ truyền vốn hàm chứa nhiều yếu tố có tính đồng nhất (homogenes). P.Bourdieu đã hiện đại hoá khái niệm nảy. “Tập tính”[3] trong ngôn ngữ của Bourdieu ám chỉ những hành vi, cử chỉ, thói quen, bộ dạng, tư tưởng, cũng như những cách thức cảm nhận, những hình thức thể hiện tình cảm, sở thích, những quan niệm về cái xấu cái đẹp, cái lý tưởng, cái tầm thường … mà cá nhân thể hiện trong đời sống xã hội một cách ý thức hay vô thức. Những điều này có thể mới mẻ hay đã ăn sâu bám rễ trong mỗi cá thể làm thành những phản ứng, phản xạ tự nhiên nơi mỗi người. Nói cách khác, tập tính ám chỉ một tập hợp những điều đã được mã hoá về mặt xã hội, những gì cá nhân thể hiện ra mang những ý nghĩa xã hội, được mọi cá nhân trong cùng một một môi trường văn hoá nhận biết. Thông qua khái niệm “tập tính”, Bourdieu đã phát triển lý thuyết về Tái tạo xã hội (La reproduction sociale) khi phân tích về vai trò của giáo dục trong xã hội.

Xã hội hoá và tập tính cá nhân : Xã hội hoá là quá trình mà cá thể học hỏi, bắt chước, nội tâm hoá những hành vi cử chỉ, những chuẩn mực, những giá trị, niềm tin đã hiện hữu trong một xã hội hay trong một nhóm, một tập thể thông qua đời sống và những quan hệ xã hội. Thông qua quá trình xã hội hoá, tập tính nơi các thành viên trong xã hội được hình thành và tái tạo lại. Nhờ vậy những thói quen, những chuẩn mực giá trị, những nét văn hoá của xã hội, của giai cấp, của nhóm trong đó cá nhân sống tiếp tục được duy trì và củng cố. Các thành viên trong cùng một nhóm xã hội chia sẽ với nhau những yếu tố của cùng một « tập tính chung », đó là những nguyên tắc, những luật lệ, những lề thói, ngôn ngữ, những chuẩn mực giá trị chính thức hoặc ngấm ngầm chi phối suy nghĩ, hành động lớn nhỏ của các cá nhân, cũng như ảnh hưởng và định hướng những hành động có tính tập thể của một tổ chức, của một xã hội ví như thế nào là ý nghĩa của sự danh dự, của lòng yêu nước, hay lý tưởng bác ái, công bằng, dân chủ, vv. Quá trình xã hội hoá diễn ra tuỳ theo lứa tuổi, nhưng đây là một quá trình học hỏi suốt đời người. Nói tóm lại, với P. Bourdieu, tập tính là kết quả tích góp của một quá trình xã hội hoá diễn ra một cách lâu dài nơi cá thể.

Bourdieu phân biệt hai mảng trong cấu trúc của tập tính con người. Yếu tố thứ nhất liên quan đến những gì mà cá nhân sống và thực hành hàng ngày ví như những giá trị, những nguyên tắc chi phối hành động, suy nghĩ của cá nhân trong đời sống thường nhật, những gì cá nhân nội tâm hoá một cách vô thức. Những điều này khác với những gì thuộc về lý thuyết, lý tưởng được phản ảnh qua sách vở ví dụ như những chuẩn mực giá trị được nói đến trong môn đạo đức học. Yếu tố thứ hai liên quan đến thể lý, đến ngôn ngữ của cơ thể. Ðó là những cử chỉ, hành động, bộ dạng của cơ thể mỗi người, những điều này cũng được cá nhân học hỏi thông qua đời sống tập thể ví như hành động quý đầu khi chào nhau của người Việt Nam hay ôm hôn của người phương Tây.

Hai mảng nói trên của tập tính trong mỗi cá thể đan xen lẫn nhau, dựa trên đó cá nhân nhận biết và suy xét hiện tượng sự vật trong đời sống xã hội, những yếu tố này là cốt lõi làm nên nhân cách của cá nhân. Theo P. Bourdieu, có những thứ chúng ta cứ tưởng thuộc bản chất tâm sinh lý của con người như sở thích về mùi vị, về thức ăn nước uống, âm nhạc, phim ảnh, hay thậm chí những biểu lộ hàng ngày của cơ thể như đi nhanh đi chậm, tướng người nghênh ngang hay khép nép, chống nạnh hay khoanh tay,vv , thực ra, chúng đều thuộc về « tập tính », chúng ta đã sở đắc chúng thông qua quá trình xã hội hoá.

Nói tóm lại, « tập tính » là một hệ thống những biểu hiện ổn định lâu dài nới cá nhân, được hình thành thông qua quá trình xã hội hoá. Tập tính là sản phẩm phản ánh địa vị và quá trình xã hội hoá của các cá thể. Tiếp cận của P. Bourdieu về quá trình xã hội hoá khác với các lý thuyết truyền thống thường tuyết đối hoá vai trò của môi trường xã hội xung quanh trong quá trình hình thành nhân cách của con người trong đó có vai trò quan trọng của trường học. Những chuẩn mực, những giá trị có sẵn trong xã hội được áp đặt trên cá nhân, hay nói cách khác, cá nhân hoàn toàn thụ động trong quá trình xã hội hoá. Lý thuyết của ông cũng khác với các nhà xã hội học theo chủ nghĩa cá thể (individualiste), ngược lại với các nhà xã hội học truyền thống nói trên, họ cho rằng các chuẩn mực và giá trị xã hội có sẵn chỉ là một khía cạnh, họ tin rằng trong khi đóng các vai diễn xã hội trên sân khấu cuộc đời, cá nhân (được định nghĩa như acteur social) luôn có những khoảng trống tự do để chủ động chọn lựa với đầy đủ ý thức của mình, nhằm thực hiện những chiến lược riêng, nhằm làm trọn vẹn một cách tốt nhất những điều mình mong muốn. Trường học không chỉ là nơi tái tạo lại các kinh nghiệm, các giá trị và chuẩn mực có sẵn, mà là địa bàn, là đường đi mà cá thể tận dụng để thiết kế cuộc đời, thực hiện những ý đồ riêng của mình.

Lý luận của Bourdieu về khái niệm tập tính là cầu nối giữa hai lối tiếp cận đối nghịch nhau đã nói ở trên. Những thực hành trong đời sống của chúng ta không đơn giản là việc thực hành các chuẩn mực và giá trị có sẵn, nhưng nó còn diễn tả cả ý nghĩa của từng hành động mà chúng ta ý thức, chúng ta đã tích luỹ qua kinh nghiệm cuộc sống. Theo ông, cá thể con người (mà ông định nghĩa như là agent social) vừa là sản phẩm vừa là tác giả của môi trường xã hội. Tập tính của cá thể là sản phẩm của quá khứ và hiện tại, đương nhiên, cái hiện tại có nền tảng và lèo lái bởi quá khứ. Tập tính là một cấu trúc « bên trong » luôn ở trong tình trạng tái cấu trúc, cập nhật tuỳ theo sự thay đổi vị trí xã hội của cá thể. Như vậy tập tính con người không phải là một cấu trúc đã cố định, đã đóng băng, mà luôn ở trong tình trạng động. Bourdieu sử dụng những khái niệm như « tập tính sơ cấp » (habitus primaires), « tập tính trung cấp » (habitus secondaires), « tập tính gia đình » (habitus familiales), « tập tính học đường » (habitus scolaires) để phân tích quá trình hình thành, phát triển và thay đổi tập tính con người.

Tóm lại, khái niệm tập tính được định nghĩa như là thái độ đón nhận, hành động, tự định hướng của các cá thể theo vị trí của mình trong xã hội, theo hoàn cảnh của từng người bằng những phương tiện mà cá thể đã học hỏi, mà lắm khi chúng ta tưởng đó là sản phẩm sáng tạo độc lập của cá thể. Như vậy, những gì con người chúng ta thể hiện hàng ngày không hoàn toàn bị quyết định, bị điều kiện hoá bởi môi trường xung quanh như các nhà xã hội học giáo dục « quyết định luận » lý giải, vì chúng ta có ý thức và có chọn lựa một cách chủ động, nhưng chúng cũng không hoàn toàn tự do như các nhà lý thuyết « cá nhân chủ nghĩa » tin tưởng, vì những gì chúng ta làm, chúng ta nghĩ đều được định hướng bởi tập tính của chúng ta, mà điều này lại liên quan đến quá trình xã hội hoá như đã nói.



Nhà trường và sự tái tạo xã hội (reproduction sociale)



P. Bourdieu đã tin và chia sẽ sâu sắc với tư tưởng của các nhà sáng lập Ðệ Tam Cộng Hoà Pháp (1870 – 1940) cho rằng đặc điểm của một xã hội dân chủ phải được đánh dấu bởi sự công bằng những điều kiện dành cho tất cả mọi công dân, nhà trường phải là phương tiện thực hiện lý tưởng công bằng này bằng cách bảo đảm cho tất cả mọi người được thụ hưởng một nền giáo dục, cung cấp cho họ phương tiện không những để bảo đảm quyền tự do của công dân mà còn trang bị cho họ phương tiện để thăng tiến trong xã hội. Tuy nhiên trong các tác phẩm bàn về giáo dục của mình (Les Héritiers, 1964 ; La Reproduction, 1970), P. Bourdieu cho rằng nhà trường tại Pháp (vào thời ông tiến hành nghiên cứu thực nghiệm và viết các tác phẩm này) còn cách xa lý tưởng và nhiệm vụ này. Không những nó không làm cho bất công xã hội giảm bớt mà còn là nơi tái tạo lại những bất công này. Bằng những nghiên cứu thực nghiệm, với những số liệu cụ thể, ông đã chứng minh rằng, nhà trường vẫn thuộc về giai cấp thống trị, và chức năng của nó là phục vụ cho sự thống trị này hơn là tạo ra công bằng cơ hội cho con em mọi tầng lớp. Bourdieu đã phân tích nhiều chiều kích khác nhau để chứng minh điều này.

Văn hoá học đường là văn hoá thống trị : Bourdieu cho rằng, « văn hoá học đường »[4] là văn hoá của giai cấp cai trị, đã được hợp pháp hoá, đã được làm cho khách quan, trở thành những điều hiển nhiên mà mọi thành viên trong xã hội mặc nhiên thừa nhận, được áp đặt lên người học. Những điều được Bourdieu gọi là « văn hoá học đường » này không phải là những nét, những nội dung văn hoá được chắt lọc thông qua những mối quan hệ tương tác của nhiều thành phần trong xã hội và phản ánh bản chất nền văn hoá của toàn xã hội. Nói cách khác, văn hoá học đường không phải bắt nguồn từ một nền văn hoá phổ quát mà chính là hiện thân của văn hoá riêng của giai cấp cầm quyền – văn hoá thống trị. Về điều này, Bourdieu đã viết trong La Reproduction, (1970, tr. 22) :

« Sự lựa chọn những ý nghĩa nhằm định nghĩa một cách khách quan văn hoá của một nhóm hay một giai cấp như hệ thống biểu tượng là sự áp đặt với tư cách là một cấu trúc, và những chức năng của cái văn hoá này không thể được rút ra từ bất kỳ một nguyên tắc phổ quát nào...»

Thông qua các khâu trong quá trình đào tạo, nhà trường làm nhiệm vụ tái tạo lại nền văn hoá thống trị này. Hay nói cách khác, nhà trường làm nhiệm vụ chuyển tải và áp đặt nền văn hoá này lên tất cả người học. Chức năng này được thực hiện một cách công khai hoặc ngấm ngầm trong mọi quy trình từ việc định nghĩa mục tiêu đào tạo, đến quá trình biên soạn các chương trình, nội dung giảng dạy cũng như quá trình, cách thức đánh giá kết quả học đường, vv, mà các nhà xã hội học giáo dục « curriculum »[5] gọi là curriculum chính danh và thực tiễn (trong đó P. Bourdieu là một trong những thành viên sáng lập)

Ai là tác giả, là người định nghĩa những mục tiêu đào tạo cho trường học ? Ai có thẩm quyền quyết định cái đẹp, cái lý tưởng, những phẩm chất, những tiêu chuẩn của một sinh viên ra trường được xem là lý tưởng ? Để được gọi là một sinh viên « xuất sắc », người này phải hội đủ những tiêu chuẩn nào ? Ai là người quy định và công nhận ? Câu trả lời của Bourdieu là giai cấp cai trị, họ dành quyền định nghĩa, quy định những điều này dựa trên văn hoá riêng của họ, chứ không hề là sự đúc kết, tổng hợp từ những tinh hoa của các nền văn hoá gắn liền với các giai cấp khác nhau ở trong xã hội.

Tại sao trường học lại chọn môn này mà không chọn môn kia ? Tại sao nhấn mạnh mảng kiến thức này và xem nhẹ mảng kiến thức khác ? Ai là tác giả của những chương trình đào tạo, ai quyết định nội dung của các môn học ? Ai xếp đặt thời khoá biểu, lên chương trình sinh hoạt hàng ngày, hàng tuần, hàng năm cho sinh viên ?… Những điều trên cũng chính là ý muốn của những người đại diện cho giai cấp cầm quyền, họ làm các chương trình đào tạo, quy định những nội quy, luật lệ trong trường học trước tiên là nhằm chuyển tải nền văn hoá thống trị cũng như làm cho người học chấp nhận nó như là nền văn hoá chung, phổ quát và hợp lý. Lấy ví dụ, Bourdieu thấy rằng, nội dung các môn học, kể cả các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật không phải được lựa chọn một cách khách quan, nhưng luôn được định hướng nhằm chuyển tải văn hoá của giai cấp cầm quyền. Những giai cấp bị trị không có mặt trong quy trình lựa chọn nội dung giảng dạy, và đương nhiên trong những nội dung đó, không có phần cho văn hoá của họ.



Nhà trường còn làm nhiệm vụ tái tạo nền văn hoá thống trị thông qua cách thức đánh giá kết quả học tập của người học. Bourdieu thấy rằng những tiêu chuẩn và cách thức mà các giáo viên - những người thuộc về giai cấp thống trị sử dụng để đánh giá kết quả học tập của người học không phải là những tiêu chuẩn khách quan mang tính học thuật, nhưng là một khâu trong toàn bộ chức năng tái tạo « văn hoá » của nhóm cầm quyền. Giáo viên thường đánh giá kết quả học tập của học sinh thông qua các hình thức thi vấn đáp cũng như thi viết. Những điều mà họ dựa vào để đánh giá người học hoàn toàn chủ quan, điểm thi cao thấp không những chỉ được dựa trên những quy chuẩn chính thức đưa ra mà còn dựa rất nhiều trên những điều không chính thức, không công khai, Thậm chí những điều không chính thức này lại đóng vai trò quan trọng hơn những điều chính thức. Ví như thi vấn đáp, các giảng viên không những dựa trên nội dung của những câu trả lời liên quan đến chuyên môn mà còn dựa vào thái độ, cử chỉ, giọng nói, vv của học sinh để cho điểm. Hay nói cách khác, nếu người học tỏ ra rằng « tập tính » của mình cùng sóng với tập tính của giáo viên chấm thi càng nhiều, thì điểm đạt được càng cao. Điều này quả là có lợi cho con em của tầng lớp trên bởi nơi họ tập « tính gia đình », « tập tính sơ cấp » trùng khớp với tập tính học đường - tập tính của đa phần các giáo viên.

Bourdieu đã chứng minh rằng nơi nào khoảng cách giữa văn hoá học đường và văn hoá hàng ngày, thứ văn hoá chi phối quá trình xã hội hoá của học sinh (văn hoá khu xóm, văn hoá gia đình), càng gần nhau, nơi đó kết quả học tập của học sinh càng cao. Sở dĩ con em của tầng lớp trên thường có kết quả học tập tốt hơn so với con em của các giai cấp dưới, vì văn hoá học đường gần gũi với văn hoá hàng ngày của giai cấp này. Học sinh thuộc tầng lớp trên ngay khi lọt lòng mẹ đã được thừa hưởng vốn văn hoá có sẵn của gia đình, đó là những tri thức, ngôn ngữ, kiểu cách, quan niệm, tư duy… gần gũi với những đường nét của « văn hoá học đường », cũng chính là thứ văn hoá trong sách vở, trong nghệ thuật, phim ảnh… . Sự gần gũi này cất nghĩa sự thành công trong học tập của con em thuộc giai cấp trên, nên chẳng lạ gì, các sinh viên có nguồn gốc quý tộc, những người « thừa hưởng » (Les heritiers) thường thành công trong các trường đại học so với sinh viên hưởng « học bổng xã hội» thuộc tầng lớp nghèo.

Ý thức hệ, nhà trường và sự tái tạo bất bình đẳng xã hội : Theo P. Bourdieu, tuy nhà trường không tự bộc bạch một cách công khai trên giấy trắng mực đen rằng, chức năng của nó là tái tạo trật tự xã hội, nghĩa là chức năng duy trì và củng cố sự thống trị của giai cấp cầm quyền, nhưng trên thực tế, nhà trường đang hàng ngày thực thi nhiệm vụ này. Trong trường hợp nước Pháp, cơ chế tái tạo trật tự xã hội của giai cấp cầm quyền này được nguỵ trang dưới luống « ý thức hệ khiếu bẩm sinh » (ideologie du don).

Ý thức hệ này đã có từ những ngày đầu thành lập chế độ cộng hoà tại Pháp, dựa trên nền tảng cho rằng : Sự khác biệt trong kết quả học tập của học sinh có nguồn gốc từ sự khác biệt về năng khiếu tự nhiên, bẩm sinh của các em. Các nhà lãnh đạo cho rằng, nhà trường của chế độ là nơi dành cho mọi con em của mọi tầng lớp xã hội, là nơi tạo ra sự công bằng cơ hội cho mọi người. Cá nhân có tự do và có cơ hội vươn lên trong bậc thang xã hội nếu họ có khả năng, có khiếu và sở thích. Trước mặt pháp luật, mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ như nhau… Thế nhưng, những điều có vẽ khách quan, không thiên vị giai cấp đó lại không có phần dành cho giai cấp bị trị, ngược lại, nó củng cố vị trí của kẽ thống trị.

P. Bourdieu đã chỉ ra rằng chính cái suy nghĩ cho rằng kết quả học tập của học sinh phản ánh khả năng năng khiếu của từng người che đậy sự bất bình đẳng xã hội. Ý thức hệ này đã làm hợp pháp hoá sự bất bình đẳng này. Thực ra, sự khác biệt trong kết quả học đường có nguồn gốc từ sự bất bình đẳng xã hội, từ sự khác biệt văn hoá kéo theo sự khác biệt về tập tính giữa giáo viên và các nhóm học sinh, con em của các tầng lớp xã hội khác nhau. Ví dụ như chuyện đánh giá kết quả học đường, tiêu chuẩn để đánh giá kết quả tốt - xấu cho từng học sinh không phải là những tiêu chuẩn đơn thuần mang tính học thuật, mà chính là những tiêu chuẩn mang tính xã hội, bởi như đã nói ở trên, cái văn hoá ngự trị, được áp đặt lên người học trong trường học là văn hoá của nhóm cầm quyền, mà các giáo viên là những người đại diện. Chính bản thân họ thuộc về giai cấp cai trị, họ mang nhân sinh quan của kẻ mạnh, mang ý thức hệ « khả năng bẩm sinh » để sản sàng « cho rớt » những học sinh không cùng tầng văn hoá và tập tính như mình.

Như vậy, ý thức hệ « khả năng bẩm sinh » là kiểu lý luận biện minh và làm hợp pháp hoá trật tự xã hội có sẵn có lợi cho giai cấp cai trị. Chức năng của nhà trường là làm hợp lý hoá, bình thường hoá sự bất bình đẳng này, làm cho mọi người chấp nhận nó như là điều đương nhiên và áp đặt nó trên mọi tầng lớp xã hội khác, nhằm củng cố sự thống trị của giai cấp cai trị, chứ không phải là nơi tạo ra sự công bằng cơ hội trong một lý tưởng tự do.

Con em tầng lớp bình dân và bạo lực biểu trưng (Violence symbolique) : Theo P. Bourdieu, thông qua các khâu trong quá trình tổ chức giảng dạy, nhà trường áp đặt nền « văn hoá » của giai cấp cai trị và làm hợp pháp hoá sự áp đặt này, hành động mà nhà xã hội học này gọi là « cưỡng bức văn hoá » ( arbitraire culturelle) như ông đã viết trong La Reproduction : « Một cách khách quan, tất cả hành động sư phạm là một bạo lực biểu trưng với tư cách là một sự áp đặt, bởi một quyền lực cưỡng bức, một sự cưỡng bức văn hoá »

Hành động « dạy học » là một hành động áp đặt có tính cưỡng bức, người học muốn hay không cũng không có lựa chọn khác trước một cơ chế giáo dục, với một mục đích, với những nội dung, những chương trình, quy trình đánh giá… có sẵn và mang văn hoá của giai cấp thống trị. Con em của các tầng lớp khác trong xã hội buộc phải tuân phục, vâng lời những gì có sẵn.

Mặt khác, giáo dục nhà trường phủ nhận, từ chối những khác biệt trong xã hội, sự khác biệt giữa các tập tính của từng học sinh khác nhau. Mặc kệ cho gốc gác khác nhau của các học sinh, nhà trường buộc các em phải công nhận cùng một loại hình giảng dạy, một loại kiến thức, các giá trị xã hội, cùng một loại « di sản văn hoá », một kiểu kiến thức và kỹ năng… điều này có thể tìm thấy trong các môn học như luật, y khoa, kỹ thuật, hay âm nhạc vv,. Ðương nhiên nhà trường không tuyên bố công khai chức năng, vì dưới mắt mọi người, những gì nhà trường chuyển tải, chủ trương đều được nhìn nhận là hợp pháp và hợp lý.

Nhà trường là nơi cưỡng bức văn hoá : Trong xã hội có các vùng tiểu văn hoá của các nhóm khác nhau, điều này có nghĩa, nhà trường là nơi gặp gỡ, giao thoa của các tiểu văn hoá thuộc mọi thành phần học sinh khác nhau. Tuy nhiên đây không phải là một sự giao thoa sòng phẳng và công bằng, mà là một sự hà hiếp văn hoá. Như đã nói, nhà trường là nơi ngự trị của văn hoá thuộc giai cấp thống trị, nền văn hoá của kẻ mạnh này lấn át các văn hoá thuộc con em của các tầng lớp bình dân, người lao động. Nói cách khác, nhà trường là nơi xảy ra quá trình tự huỷ của các tiểu văn hoá của những kẻ yếu nhưng có khi thuộc số đông. Sự không công bằng trong quá trính giao thoa văn hoá này dẫn đến bất lợi cho con em thuộc các tiểu văn hoá khác. Văn hoá, lối sống, ngôn ngữ của họ vốn dĩ xa lạ với những gì con em buộc phải theo, phải thực hiện để được lên lớp, được thành công trong việc học tập. Ðiều này tạo ra một sự vong thân văn hoá nơi con em của tầng lớp dưới, bởi họ phải từ bỏ cội nguồn văn hoá nhóm của mình để sống với một thứ văn hoá « ngoại lai », xa lạ với những gì quen thuộc từ khi lọt lòng mẹ. Lấy một ví dụ, ngôn ngữ sử dụng trong trường học nói chung tại Pháp và trong bộ môn ngôn ngữ học nói riêng là ngôn ngữ của giới quý tộc. Ðó là ngôn ngữ của giới trí thức - hàn lâm, được chuẩn hóa, trở thành chuẩn mực chính thức trong cách sử dụng từ ngữ cho toàn dân. Những thứ chuẩn mực hàn lâm này xa lạ với ngôn ngữ bình dân của tầng lớp lao động. Như vậy, con em họ phải chịu áp đặt, chịu « bạo lực biểu trưng » (violence sympolique) khi buộc phải từ bỏ dần ngôn ngữ riêng của nhóm mình - thứ ngôn ngữ đánh dấu ấn trong quá trình hình thành tập tính của họ, để học hỏi, sử dụng ngôn ngữ của tầng lớp trên. Sự « sốc văn hoá » này là một trong những nguyên nhân làm cho con em những người lao động mất dần động cơ học tập[6].

Trình độ học vấn là một trong ba loại vốn trên đường đời của mỗi cá nhân, nó là yếu tố quan trọng tạo ra vốn kinh tế và vốn quan hệ xã hội, con em thuộc tầng lớp dưới khi đã không sở hữu được bằng cấp thì cũng chịu thiệt thòi về mặt kinh tế và địa vị xã hội. Như vậy nghèo vẫn hoàn nghèo, từ tiếp cận này, chúng ta thấy nhà trường không phải là nới tạo ra công bằng cơ hội như tuyên bố của các nhà chính trị, nhưng nó là thiết chế tái tạo trật tự xã hội (ordre social), một trật tự bất bình đẳng kiểu « con vua thì lại làm vua – con sãi ở chùa lại quét lá đa ». Nhà trường là nơi làm hợp pháp hoá và kéo dài sự bất công này.

Kết luận

Lý thuyết của P. Bourdieu bao trùm lên nhiều mảng trong đời sống xã hội, đã là gợi hứng mạnh mẽ cho các nhà nghiên cứu trong mỗi lĩnh vực. Tiếp cận của ông dung hoà được nhiều trường phái nhưng mạnh mẽ, đầy sức chiến đấu. Riêng về lĩnh vực giáo dục, các công trình của ông đã tạo ra nhiều chấm phá, gợi hứng hấp dẫn cho các nhà xã hội học giáo dục khắp nơi. Những nghiên cứu về giáo dục của ông đã được thực hiện cách đây gần ba mươi năm, nhưng đến nay vẫn luôn có tính thời sự.

Tuy nhiên, cũng như những lý thuyết khoa học khác, những lý luận của P. Bourdieu cũng không tránh được những phê bình, một số nhà nghiên cứu[7] cho rằng, lý thuyết của ông giúp chúng ta hiểu hiện tượng giáo dục nhưng lại không giúp chúng ta làm thế nào để giải quyết vấn đề. Khi giải thích sự khác biệt trong kết quả học tập của học sinh, ông kết luận rằng vấn đề không phải do năng khiếu tự nhiên, bẩm sinh, nhưng sự khác biệt văn hoá, là hệ quả của hành động « bạo lực biểu trưng », vậy sẽ giải thích thế nào hiện tượng hai học sinh con cùng một gia đình có kết quả học tập khác nhau. Chẳng lẽ thái độ và ý thức học tập của các em, những em nghiêm túc, chăm chỉ trong việc học hành không có tác dụng gì đến kết quả học tập sao ? Hay khả năng sư phạm của người thầy có ảnh hưởng gì trên kết quả học tập của các em không ? Có phải tất cả giáo viên trong trường học đều là đại diện cho giai cấp cai trị không ? Người ta thấy, nếu đặt lý thuyết của Bourdieu vào cái nhìn của giáo dục học, sẽ nảy sinh nhiều vấn đề khúc mắc cần phải giải quyết.

Tóm lại, lý thuyết của Bourdieu về giáo dục có thể gợi lên muôn đề tài cho các nhà xã hội giáo dục, đương nhiên là cả các nhà nghiên cứu giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Lý luận của ông cũng có thể giúp chúng ta đi tìm gốc gác các vấn đề trong giáo dục, nhất là giáo dục đại học vốn đang chịu nhiều chỉ trích hiện nay. Chúng ta có thể tìm những câu trả lời liên quan đến giáo dục nước nhà chẳng hạn như : « Văn hoá học đường » đang được chuyển tải hiện nay trong giáo dục là văn hoá của ai ? Nhà trường đang áp dụng những kỹ thuật gì, những cách thức nào để áp đặt văn hoá đó lên người học ? Liệu văn hoá học đường hiện tại có quá mâu thuẫn với các văn hoá đến từ các khu vực khác như gia đình, môi trường xã hội, môi trường kinh tế thị trường vv ? Hay chức năng của nhà trường hiện nay là gì ? Nhà trường có là phương tiện thực hiện lý tưởng «công bằng – dân chủ - văn minh » hay cũng là nơi làm hợp pháp hoá và củng cố trật tự xã hội kiểu vốn đang bất bình đẳng trầm trọng hiện nay ? Muốn hội nhập với thế giới, muốn làm hài hoà giữa văn hoá lãnh đạo và các văn hoá khác đến từ những khu vực xã hội kinh tế khác, chúng ta cần phải thay đổi « văn hoá học đường » hiện nay như thế nào ?

Trước khi thực hiện cải cách giáo dục, chúng ta cần giải quyết một cách dứt điểm và rõ ràng chuyện « văn hoá học đường», cũng có thể hiểu đó là đi tìm một « triết lý giáo dục » như báo chí gần đây hay nói tới. Điều này liên quan đến câu hỏi : chúng ta muốn đào tạo ra mẫu người như thế nào ? Hiện nay, hình như câu trả lời hoàn toàn phụ thuộc vào những lãnh đạo đứng đầu hệ thống chứ không thuộc bất kỳ ai trong trường đại học, trong Bộ Giáo Dục, hay các tác nhân đến từ thị trường lao động, từ xã hội dân sự. Lúc nào câu trả lời còn chưa thông, chưa hợp lý, thì những nỗ lực cải cách trong giáo dục của chúng ta cứ lại luẩn quẩn vòng vo như lâu nay vẫn thấy.

Theo chúng tôi, nội dung của “văn hoá học đường“ mà nhà trường nhất là trường đại học chuyển tải phải bảo đảm tính khách quan, đa chiều nhằm làm phong phú vốn văn hoá, làm tăng khả năng tư duy, khả năng thích ứng của người học sau khi ra trường nhất là trong thời hội nhập hiện nay, chứ không nên khép sinh viên vào một chủ thuyết hay một lối tiếp cận nào một chiều cố định. Ðiều đó trái với tinh thần khoa học hiện đại và chủ trương hội nhập đã được Luật Giáo Dục minh định. Bởi lẻ khoa học cũng như khuynh hướng của thế giới mà chúng ta đang muốn hội nhập hiện nay đang đề cao chủ nghĩa đa cực tương đối hơn là đơn cực tuyết đối, khuynh hướng này cũng rất thân thiện với văn hoá Á Ðông vốn đề cao tinh thần trung dung, đã thấm vào ý thức tập thể, vào “tập tính dân tộc“ ta hàng chục thế kỷ nay.



Tài liệu tham khảo



Bourdieu. P, Passeron. J.C. (1970) - La Reproduction, Paris : Les éditions de Minuit

Bourdieu. P, Passeron. J.C. (1964) - Les Héritiers, Paris : Les éditions de Minuit

Bourdieu. P, Passeron. J.C. (1989) – La Noblesse d’Etat – Grandes ecoles et esprit de corps, Paris : Les éditions de Minuit

Durkheim.E. (1966) - Education et Sociologie, Paris : PUF

Le Thanh Khoi.(1991) - Marx - Engel et l’éducation, Paris : PUF

Nguyễn Khánh Trung. (2008) - Giới thiệu xã hội học curriculum, đăng trong Tạp Chí Xã Hội Học, số 1 – 2008

Nguyễn Khánh Trung. (2007) - Những vấn đề giáo dục đại học hiện nay – Nhìn từ góc độ xã hội học giáo dục đăng trong Tạp chí Phát triển kinh tế, số 205, 11 - 2007



Philippe Perrenoud. (1990) đăng trong Coordination, số 37, mai 1990

BERNARD LAHIRE. (1999) - L’homme pluriel : La sociologie à l’epreuve de l’individu, đang trong Sciences Humaines et Sociales, số 91 – 1999

Vincent Troger (2002) - Bourdieu et l’école: la démocratisation désenchantée, đăng trong Sciences Humaines - « L’œuvre de P. Bourdieu », số 1 (đặc biệt), 2002

Patrice Bonnewitz. (2005) - Premieres lecons sur La sociologie de P. Bourdieu, Paris : PUF


[1] Bourdieu et l’école: la démocratisation désenchantée, Sciences Humaines « L’œuvre de P. Bourdieu » 2002, tr. 16

[2] BERNARD LAHIRE, L’homme pluriel : La sociologie à l’epreuve de l’individu, đang trong Sciences Humaines et Sociales, số 91 – 1999, tr. 270

[3] Xem Patrice Bonnewitz, Premieres lecons sur La sociologie de P. Bourdieu, PUF, Paris, 2005, tr. 61 – 65.

[4] Văn hoá ở đây nên được hiểu là những gì được cho là đẹp, là đúng, là tích cực, là tinh hoa được chọn lựa, được đề cao như là những nét lý tưởng trong nhà trường. Khái niệm « văn hoá học đường » không những ám chỉ văn hoá, ý thức hệ của giai cấp thống trị mà còn cả kiến thức, kỹ năng mà nhà trường chuyển tải… Dưới góc độ xã hội học, văn hoá luôn gắn liền với những điều kiện, với những hoàn cảnh, với môi trường sống của con người. Trong một xã hội, có thể có nhiều nền văn hoá khác nhau trong đó văn hoá được chọn lựa, được phổ biến bao trùm lên các nhóm xã hội khác nhau cũng chỉ là một loại, và đó thường là văn hoá của nhóm cầm quyền. Các nhà xã hội học thường tìm cách miêu tả những cách thức và kỹ thuật được giai cấp cầm quyền áp dụng nhằm quảng bá và áp đặt văn hoá riêng của mình lên toàn xã hội mà nhà trường là một địa bàn quan trọng để thực hiện điều này hơn là đi trả lời câu hỏi văn hoá là gì như các nhà văn hoá học hay các nhà triết học (xem Philippe Perrenoud, Coordination, n° 37, mai 1990, tr. 21-23. Được sử dụng lại trong Perrenoud, Ph.: La pédagogie à l’école des différences, Paris, ESF, 1996, chapitre 1)

[5] Chúng tôi đã có bài giới thiệu lý thuyết xã hội học curriculum, đăng trong Tạp Chí Xã hội học - Viện Xã Hội Học Quốc gia,Hà Nội, số 1/ 2008.

[6] Một điều tra của M. Duru – Bellat[6] trên 2500 học sinh tại 17 trường trung học cơ sở thuộc vùng Dijon chỉ ra rằng gần một nữa con em của các gia đình công nhân bỏ học vào giai đoạn hết lớp 5, trong khi đó chưa đến 10% con em thuộc tầng lớp cán bộ rời nhà trường ở cấp học này. Về lý do nghĩ học của con em công nhân, Bellat thấy rằng không những chỉ là vấn đề hổng kiến thức, mà còn là do con em công nhân thiếu môi trường học tập, cũng như do sự khắt khe của các giáo viên tại các trường thuộc những khu vực dân nghèo trong việc xét cho các học sinh lên lớp trên (Patrice Bonnewitz, 2002, trích, tr. 98)

[7] Ví dụ như phát biểu của giáo sư Bernard Charlot (Đại học paris VIII) đăng trên Le Monde – 26 janvier 2002

 
Thứ năm, 08 Tháng 3 2012
“Trí thức và vai trò của trí thức” hay “câu chuyện về trí thức” là một đề tài không mới, nhưng chưa bao giờ cũ. Đây cũng là một đề tài rất phức tạp và dễ gây tranh cãi, nhưng là một đề tài đầy ý nghĩa đối với bất cứ xã hội nào, trong bất cứ thời đại nào. Có rất nhiều góc nhìn khác nhau về trí thức, mỗi góc nhìn lại cho ta một cách hiểu về trí thức và vai trò của trí thức. Nếu ta có được nhiều góc nhìn về một vấn đề thì ta sẽ có cơ hội hiểu vấn đề đó một cách đầy đủ và sâu sắc hơn, vì khi đó không chỉ thấy “cây”, mà còn thấy “rừng”.

Trong phạm vi bài viết này, từ một góc nhìn, tôi cho rằng, trí thức là người có trí và luôn dùng cái trí của mình để góp phần thức tỉnh xã hội nhằm hướng mọi người đến cái đúng và cái đẹp.

Nếu ai đó “có trí” (sự hiểu biết) nhưng lại “không thức” (không thức tỉnh xã hội) mà để cho xã hội “ngủ” thì bị gọi là “trí ngủ”, chứ không phải là “trí thức”. Nếu ai đó thích làm cái việc của trí thức là “đánh thức xã hội” nhưng lại “thiểu trí”, “lệch trí” hay “vô trí” thì gọi là “trí dỏm” (cũng có học hàm, học vị nhưng đầu óc lại trống rỗng, hoặc cũng có chút hiểu biết nhưng hiểu biết đó lại thể hiện sự lệch lạc và ẫu trĩ). Và nếu ai đó “có trí”, “có thức”, nhưng “thiếu tâm” (thiếu động cơ trong sáng) thì gọi là “trí gian” (gian manh, xu thời, cơ hội). Cả 2 loại “trí dỏm” và “trí gian” đều là “ngụy trí thức”, còn “trí ngủ” là “trí thức vô trách nhiệm”.

Có thể hình dung ba điều kiện để hình thành một con người “trí thức”, đó là: (1) “sự hiểu biết” (có trí); (2) “thức tỉnh xã hội”; và (3) “vì mục đích cao quý” (hướng xã hội đến cái đúng và cái đẹp, hướng xã hội đến cái chân-thiện-mỹ). Nếu không hội đủ cả 3 điều kiện này (mà chỉ có 1 hay 2 trong 3 điều kiện) thì hoặc là “trí ngủ”, hoặc là “trí dỏm”, hay “trí gian”, chứ không phải là “trí thức”. Hay nói một cách nôm na, trí thức là người “có Trí”, “có Thức” và “có Tâm” (có 3T).

Từ cách hiểu này, chúng ta có thể thấy rằng, bàn về trí thức hay bàn về vai trò của trí thức thực chất cũng chính là bàn về trách nhiệm xã hội của những người hiểu biết.

Tôi rất thích một câu nói của Einstein “Thế giới này là một nơi nguy hiểm, không phải vì những kẻ xấu xa mà vì những người chỉ biết đứng nhìn và không làm gì cả”. Câu nói này nói về trách nhiệm xã hội (trách nhiệm “làm người”) của một người bình thường đối với cái xã hội hay cái cộng đồng mà mình đang sống. Một người bình thường vô cảm thì đáng phê phán, còn một người có hiểu biết sâu sắc và được lắng nghe mà yên lặng thì còn đáng phê phán hơn. Một người bình thường còn có trách nhiệm xã hội như vậy, đối với những người có hiểu biết thì trách nhiệm xã hội này còn lớn hơn.

Nói cách khác, vai trò của những người có hiểu biết là: dùng sự hiểu biết (và cả uy tín) của mình để góp phần giúp cộng đồng phân định rõ hơn sự đúng-sai, phải trái, chân-giả, thiện-ác, hay-dở, tốt-xấu, nên-không nên… trước những vấn đề chung mà xã hội đã, đang và sẽ gặp phải hay trải qua; dùng sự hiểu biết của mình để truyền bá tinh thần, tư tưởng, quan điểm mà mình tin là cần thiết để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần xác lập những chuẩn mực xã hội, những thang giá trị xã hội và đồng thời ra sức bảo vệ những chuẩn mực và giá trị đó; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần định hướng, định hình xã hội… Tất nhiên sự phân định, sự truyền bá, sự xác lập hay sự định hướng, định hình này cũng cần phải dựa trên cái nền là những giá trị vượt không gian và vượt thời gian, những giá trị có tính phổ quát của thế giới đương đại hay thế giới tương lai.

Và tất nhiên, để thực hiện trách nhiệm xã hội của mình thì người hiểu biết có thể nói, có thể viết, hay có thể làm gì đó (bởi lẽ không phải tất cả những người hiểu biết đều giỏi nói hay giỏi viết). Vì làm một điều tốt cũng là cách gián tiếp góp phần đấu tranh tiêu diệt cái xấu; làm một điều đúng, cũng là cách gián tiếp góp phần chỉ cho người khác thấy những cái sai…

Thêm nữa, khi nói đến trí thức là nói đến vấn đề “chân lý”. Không ai được phép độc quyền chân lý, nhưng ai cũng được quyền góp phần xác lập chân lý. Giới trí thức thường tự phân biệt giới mình với những giới khác ở chỗ luôn nỗ lực khám phá chân lý, xác lập chân lý và bảo vệ chân lý. Đó cũng là lý do vì sao mà người ta thường nói, chân lý thường không thuộc về số đông hay “kẻ mạnh”, mà thường thuộc về những người có hiểu biết (hay còn gọi là giới trí thức, giới tinh hoa). Nếu chân lý có thuộc về “kẻ mạnh” (nhưng thiếu hiểu biết) thì điều đó chắc chắn cũng chỉ là tạm thời mà thôi.

Khi bàn về trí thức thì người ta thường bàn về vai trò, trách nhiệm, công việc, sứ mệnh, thiên chức của trí thức. Tuy nhiên, cũng cần phải bàn về “điểm mù” của trí thức, dù trí thức có cái trí hơn người. Bởi lẽ, trí thức cũng là con người, mà đã là con người thì cũng sẽ có cái nhầm, có lúc sai mà mình không hề biết; Bởi lẽ, trí thức cho dù có trí thế nào đi nữa thì sự hiểu biết vẫn chỉ là hữu hạn. Điểm mù ở đây được hiểu là “mình không biết cái mà mình không biết” hay “mình cứ tưởng mình hiểu rất rõ một thứ nhưng thực ra mình chẳng hiểu gì cả hay hiểu một cách lệch lạc”. Khi chia sẻ, tranh luận hay góp ý sẽ giúp mỗi người nhìn thấy điểm mù của người và của mình. Khi nhận ra điểm mù của mình cũng là lúc “mình biết rõ cái mà mình không biết”; và khi nhận ra những “cái mà mình không biết” cũng là lúc cảm thấy mình thực sự hiểu biết. Đó cũng là điều kiện để mình có thể hiểu biết thực sự và là cơ hội để đẩy nhận thức và hiểu biết của mình đi xa hơn.
Do vậy, cùng với trách nhiệm “thức tỉnh xã hội” thì trí thức cũng có một trách nhiệm với bản thân là liên tục “phản tỉnh chính mình”, phản tỉnh với những điểm mù (nếu có) của mình. Nếu không liên tục “phản tỉnh chính mình” hay thậm chí là “phản tư chính mình” thì người hiểu biết sẽ dễ trở thành người ít hiểu biết hay người ấu trĩ trong một số vấn đề (kể cả những vấn đề thuộc chuyên môn hay sở trường của mình), và khi đó sẽ không chỉ khó thực hiện được tốt cái vai trò “thức tỉnh xã hội” vốn có của mình, mà còn có thể gây nguy hại cho xã hội.

Ở bất cứ xã hội nào thì sứ mệnh của trí thức vẫn thế. Và đối với những xã hội mà trong đó còn đầy rẫy sự bất thường thì một trong những sứ mệnh lớn nhất của trí thức chắc hẳn là góp phần đưa sự bất thường đó trở về sự bình thường. Nói cách khác, trong những xã hội mà sự bất thường của sự việc, sự vô minh của cái đầu, vô cảm của trái tim đang bao trùm thì trách nhiệm của người trí thức, của những người có hiểu biết còn nặng nề hơn (vì có quá nhiều cái cần phải khai sáng, cần phải thức tỉnh) và nguy hiểm hơn (vì không dễ dàng gì để làm cái chuyện khai sáng hay thức tỉnh trong những xã hội này).

Nhưng, đã là người có hiểu biết thì không thể không làm gì cả, bằng cách này hay cách khác, dù nhỏ bé hay lớn lao, dù ồn ào hay lặng lẽ…

Giản Tư Trung


Sài Gòn, 25/01/2012

Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song/cuoc-song-quanh-ta/3976-cau-chuyen-tri-thuc-hay-la-ban-ve-trach-nhiem-xa-hoi-cua-nhung-nguoi-hieu-biet.html

 
03:56-02/03/2012
 Phạm Trần Lê


Thiên tài cũng bởi chữ Duyên mà thành!1
Sau khi đọc Vong bướm, một người đọc bình thường có thể đặt câu hỏi rằng phải chăng nghệ thuật của Nguyễn Huy Thiệp đã qua thời kỳ của cái đẹp đau đớn nhưng đầy xúc cảm, với sức mạnh giúp con người thăng hoa và hồi sinh, thời kỳ của Con gái thủy thần, Muối của rừng, Mưa Nhã Nam, hay Cánh buồm nâu thuở ấy?

Và phải chăng cũng không còn nữa những cuộc xung đột đa chiều đầy hàm súc của nhiều tuyến nhân vật sinh động giàu sức sống, như Không có vua và Sang sông?

Thế thời phải thế

Vì sao con đường sáng tạo của một nhà văn có tâm hồn phức tạp, tinh tế, sâu thẳm, và tài năng lớn (để là tác giả của tất cả những tác phẩm trên đây) dường như bị chững lại? Đó có phải là một sự suy thoái trong sáng tạo?

Câu hỏi trên đây là cần thiết. Có lẽ bản thân nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cũng luôn suy nghiệm về sự suy thoái, và điều này thể hiện qua nhiều tác phẩm, trong đó có Vong bướm. Hai tác phẩm Vong bướm và Truyền thuyết tìm vua trong cuốn sách mới của ông đều xoay quanh những suy nghiệm về sự tha hóa của con người, do chủ động hoặc bị hoàn cảnh tác động mà đi chệch khỏi con đường của Đạo.

Năm 2008, trong diễn văn đọc nhân sự kiện được nhận giải thưởng Nonino Risit D’Âur Prize, Nguyễn Huy Thiệp từng kể lại câu chuyện ngụ ngôn về sự thoái hóa của một vị đạo sĩ. Đại ý như sau. Ở một xứ nọ, con người thuần phác có một đạo sĩ thánh thiện, nghèo túng, thường cho dân làng những lời khuyên chí thánh, và cũng được dân làng hết sức quý trọng. Thấy ông bị bọn chuột quấy phá, một người thương tình đem cho một con mèo. Con mèo thường được dân làng cho sữa, và một ngày kia có người ở xa giàu có đem cho vị đạo sĩ một con bò sữa để nuôi con mèo. Dân làng thấy vậy mới làm cho con bò cái chuồng, nhân thể làm cho vị đạo sĩ một cái am nhỏ để ở. Để giúp ông nuôi bò, không lâu sau người ta gửi cho ông một người đàn bà. Vậy là vị đạo sĩ không còn giữ được sự yên ổn trong lòng mình nữa. Trở nên đầy đủ như một phú ông, ông lấy người đàn bà làm vợ. Ít lâu sau ông bắt đầu hay cáu gắt, văng tục, nói nhảm nhí, uống rượu, đánh người, và chạy theo những cô gái đáng tuổi con mình. Con đường tu hạnh của vị đạo sĩ đến đây chấm dứt.

Câu chuyện kể này có lẽ ẩn chứa một số ám ảnh thường trực nhất định. Ám ảnh của một con người phải đối diện với những biến đổi khó khăn (hoặc thuận lợi) của đời sống khiến cho năng lượng bị phân tán, thời gian cho riêng mình ít đi. Đặc biệt đối với các nhà văn là sự mất đi những khoảng không để tĩnh tâm, chiêm nghiệm, tự thanh lọc và tu tập.

Nhưng là một người có những suy nghiệm sâu sắc về Đạo, hẳn Nguyễn Huy Thiệp không hoàn toàn coi tiến trình trên đây là một sự tha hóa, mà là một điều gì đó do sự vận động tất nhiên của đời sống: thế thời phải thế.

Tính đơn tuyến của con người thời loạn

Đối với mọi người bình thường, để vượt qua những khó khăn của vị đạo sĩ trên đây đòi hỏi một tư duy và kỹ năng tổ chức cuộc sống. Đó là sắp xếp các nguyên liệu vật chất và tinh thần mình đang có theo một trật tự phù hợp nhằm đem lại những kết quả trong cuộc sống đúng như mình mong muốn.

Tư duy tổ chức là biểu hiện của một xã hội đang phát triển đi vào ổn định. Nếu như văn học là tấm gương phản ánh hiện thực xã hội thì bản thân nhà văn trong những xã hội đang phát triển đi vào ổn định cũng cần thẩm thấu tư duy tổ chức cuộc sống, đưa nó vào trong tác phẩm văn học. Những đại tiểu thuyết như Đông Chu Liệt Quốc hay Những người khốn khổ giúp lưu giữ được cho chúng ta các không gian đại cảnh hùng vĩ, phản ánh những biến hóa sâu sắc, phức tạp của con người và thế giới trong lịch sử. Để dựng được những đại cảnh ấy, người nghệ sỹ ắt phải có tài tổ chức, một sản phẩm của xã hội đã phát triển đạt đến một độ ổn định nhất định.

Nhưng Nguyễn Huy Thiệp có lẽ không phải là con người của sự ổn định. Ông ít nhiều vẫn là người của thời loạn. Những ám ảnh về sự mất mát và ly tán vẫn luôn thường trực trong tác phẩm của ông. Có lẽ nguyên nhân một phần do khách quan cuộc sống, một phần khác do chính những đặc thù nội tại của nhà văn.

Bản năng thời loạn khiến người ta luôn trong tư thế phòng vệ và ngờ vực, vừa mong manh, vừa bảo thủ. Trong thời loạn đó là nguồn năng lượng mãnh liệt giúp người ta sinh tồn, và giúp đem đến những tác phẩm để đời cho các nhà văn lớn. Nhưng khi xã hội đi vào ổn định hơn, khi mà người ta tất yếu phải tăng cường số lượng các tương tác, giao dịch, những bản năng thời loạn bỗng trở thành có hại.

Đối với nhà văn, tâm lý phòng vệ tự bảo toàn cái tôi sẽ gây khó khăn cho việc hấp thụ nguồn sinh khí mà thời thế mới mang đến. Tri thức sâu sắc, tâm hồn đa cảm khiến nhà văn có thể nắm bắt rất nhanh các đặc thù của đối tượng quan sát, nhưng anh ta sẽ không thể hóa thân trọn vẹn thành người khác. Nếu chúng ta để ý kỹ sẽ nhận ra điều này trong các tác phẩm lâu nay của Nguyễn Huy Thiệp. Anh chỉ có khả năng phân thân chứ không thể hóa thân. Những cuộc đối thoại giữa các nhân vật khác nhau nếu thực chất chẳng phải tự sự thì cũng đơn thuần chỉ là đối đáp giữa những nhân diện giả định của cùng một tâm hồn. Tâm hồn ấy rất sắc sảo và phức tạp, nhưng đơn tuyến.

Đến với chèo

Có hai tạng nhà văn viết kiếm hiệp: Cổ Long và Kim Dung. Tạng của Cổ Long kiêu hãnh, khắc bạc, luôn xoáy sâu vào nội tâm nhân vật trung tâm. Ngược lại, Kim Dung luôn thiên về sắp xếp, tổ chức, bày binh bố trận, dàn dựng nên vô số các chi tiết đa tuyến sinh động để chắp nối hội tụ lại thành những xung đột cao trào. Một người là tạng của kiếm khách độc lai độc vãng, còn người kia là tạng của nhà quân sự. Có thể nói đây là hai thái cực cơ bản trong thế giới các nhà văn nói chung.

Nguyễn Huy Thiệp là tạng kiếm khách độc hành, không phải tạng của nhà quân sự. Anh có thể xếp quân tướng thành các lớp, các mảng một cách mạch lạc, hợp lý, và đặc tả tính cách, tâm lý, hành vi của họ rất khéo, rất tinh. Nhưng anh không thể thổi hơi cam lộ vào nhiều nhân vật cùng một lúc, buộc họ phải cùng nhảy vào lửa và đem hết tinh hoa phát tiết để phụng sự cho mình.

Tuy nhiên, Không có vua và Sang sông là ngoại lệ. Những xúc cảm bất an về một thời kỳ hỗn độn, dù mang tính đơn tuyến (và có phần độc tài) nhưng có đủ độ quyết liệt và chân thành để cho phép nhà văn thống lĩnh được các nhân vật một cách hợp tình, hợp lý.   

Trường hợp Vong bướm và Truyền thuyết tìm vua thì sao? Đây là hai tác phẩm chèo đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp. Là sản phẩm của nền văn minh lúa nước, trong tâm thức của chèo luôn ẩn chứa sẵn sự nhẫn nại của người gieo hạt chờ đến ngày gặt hái. Nghĩa là bảy được ba thua, ba chìm bảy nổi. Luôn kỳ vọng vào một ngày mai tươi sáng, nhưng nếu không may mà chẳng được thì âu cũng là lẽ thường tình. Phải chăng Nguyễn Huy Thiệp đã đến với chèo từ những đồng điệu về tâm thức, trong đó nửa phần có tâm thế bấp bênh từ một thời kỳ đã qua, nửa phần lại có tâm thế quy củ ổn định của một xu hướng thời đại đang đến. Vô tình hay hữu ý, tên gọi hai tác phẩm trong cuốn sách – Vong bướm và Truyền thuyết tìm vua – cũng phần nào phản ánh hai nửa tâm thế này.

Con đường phía trước

Thời cuộc mà chúng ta đang sống đang ở một giai đoạn mà một kiếm khách lừng danh như Nguyễn Huy Thiệp vài năm trước đã tự thán rằng giang hồ sót lại mình tôi2. Ông từng tự nhận mình viết cuốn Vong bướm nhằm dưỡng tâm. Người đàn ông nguyên thủy của những ngọn gió Hua Tát đã đi qua thời kỳ giang hồ kiêu bạc để đến với một chặng đường mới với những trói buộc không tránh khỏi mà ông tự thấy phải chấp nhận. Dù sao thì giữa ông và thời cuộc dường như đang có một độ lệch pha nhất định.

Sự lệch pha này đặt một nhà văn tử tế trước ba lựa chọn (không loại trừ lẫn nhau), nếu vẫn muốn tiếp tục hành trình sáng tạo. Một là nửa tỉnh nửa say theo đời thường thường. Hai là trở thành thi sĩ với đôi mắt ngồi đây mà thấy những đâu đâu3. Ba là đi sâu hơn vào con đường tu tập. Con đường nào sẽ thật sự đưa vong bướm về gần hơn với Đạo?
----------------
1 Nguyễn Huy Thiệp, Truyền thuyết tìm vua
2 Thơ Nguyễn Bính
3 Bùi Giáng nói về Tuệ Sĩ trong Đi vào cõi thơ


Nguồn: http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=4948


 
_Đức Phật nói rằng trên thế gian này con người ta được chia ra làm bốn loại:

1. Hạng người ở trong bóng tối hướng vào bóng tối
2. Hạng người ở ngoài ánh sáng hướng vào bóng tối
3. Hạng người ở trong bóng tối hướng ra ánh sáng
4. Hạng người ở ngoài ánh sáng hướng ra ánh sáng

Những người thuộc hạng thứ nhất là những người không gặp may mắn, gắn liền với họ là cuộc sống bất hạnh, tối tăm, thiếu thốn, hèn hạ, khốn khổ. Nhưng điều bất hạnh lớn nhất trong kiếp sống của họ là họ ôm ấp sự vô minh. Tâm sân hận, căm ghét, bực tức, oán thù của họ càng ngày càng tăng trưởng thêm mỗi khi những con người đó đối diện với nỗi khổ đau. Họ đổ lỗi hết vào người này đến người kia, cho rằng người khác là nguyên nhân khiến cho họ phải thọ nhận sự khổ đau này. Tất cả những tích lũy nghiệp của cáu giận, căm hận, oán hờn này sẽ đưa họ đến với nơi chốn tối tăm hơn và khổ não hơn trong hiện tại và những kiếp sau này.

Những người thuộc nhóm thứ hai may mắn có được có những gì được coi là ánh sáng trong cuộc đời này, họ có tiền bạc, sắc đẹp, địa vị, tiếng tăm… nhưng cái họ thiếu đó là trí huệ. Vì bị vô minh che lấp họ phát triển tâm ngã mạn, tham ái, luyến chấp, ích kỷ. Họ không biết đến yêu thương và lòng từ bi, họ đâu hiểu rằng ngã mạn, ngã kiến, cay độc, tham lam sẽ có thể làm thay đổi cuộc đời họ, đưa họ ra khỏi vùng ánh sáng và hướng họ vào trong sự tối tăm ngay trong tương lai của kiếp sống này và các kiếp sống tiếp theo.

Những người thuộc hạng thứ ba nằm cùng vị trí như những người thuộc nhóm thứ nhất. Họ chẳng có gì và bị bao vây bởi sự đau khổ tối tăm. Điều quan trọng là họ có trí huệ và thấu hiểu được hoàn cảnh, họ không bị tà kiến che phủ và nhận thức được luật nhân quả. Họ hiểu rằng họ hoàn toàn chịu trách nhiệm cho những gì gọi là khổ đau của chính mình. Những người này luôn bình tâm và cố gắng nỗ lực làm những gì giúp họ có thể thay đổi được nghiệp báo, họ không khởi tâm sân giận, oán hờn đối với người khác, thay vào đó họ tăng trưởng tình thương và lòng từ bi với những người đang gây đau khổ cho họ. Tất cả những gì họ làm sẽ có thể làm chuyển biến tình huống hiện tại của họ, tạo cho họ các thiện nghiệp và tạo cho họ một tương lai tươi đẹp và một kiếp sống mới sáng lạn.

Cuối cùng những người trong nhóm thứ tư, là những người có cùng vị trí như những người ở nhóm thứ hai. Họ có hưởng thụ tiền bạc, địa vị và quyền lực, tuy vậy họ không giống như những người thuộc nhóm thứ hai, họ có đầy đủ trí huệ. Họ biết làm sao tận dụng được những gì mình có để duy trì sự thọ nhận may mắn đó cho bản thân và cho cả những người xung quanh họ. Bất cứ những gì mà hiện hữu họ có được sẽ được họ sử dụng cho những mục đích thực sự tốt đẹp hướng tới người khác, với tình thương yêu và lòng từ bi thực sự. Sự sáng suốt này giúp họ có được một hiện tại vững bền ngay bây giờ và những kiếp tương lai nằm trong ánh sáng.


 
GS.TS. Nguyễn Ngọc Kha

Khó có thể định nghĩa tâm linh là gì, song có thể khẳng định chỉ có con người mới có được khái niệm về tâm linh. Khái niệm về tâm linh cũng chỉ có ở những người mà hoạt động của hệ thần kinh bình thường, tuy người đó có thể bị khuyết tật về một cơ quan nào đó như mắt, chân tay hay một cơ quan giác quan nào đó bí tổn thương, trừ các bệnh lý tổn thương thực thể hay chức phận tại vỏ não.

Ví dụ: các bệnh về cấu trúc não bộ hoặc rối loạn chức năng như não úng thủy, bệnh Down, bệnh Alzheimer người già, bệnh tâm thần phân liệt… những người mắc các bệnh này sẽ không có đầy đủ ý niệm về tâm linh, có chăng chỉ là ảo giác không hiện thực.

Tóm lại, khái niệm tâm linh chỉ có đối với những bộ não có cấu trúc và hoạt động bình thường không bệnh lý.

Các phương thức hoạt động của não bộ:

1) Hoạt động của vỏ não với phương thức “Logic suy luận”

Đó là những hoạt động chân tay hay trí não của những người bình thường với các công việc bình thường, cho đến các hoạt động trí não của những người thông thái với những ý tưởng siêu phàm đặc biệt, đó là sản phẩm của “Trực giác – Tiềm thức” .

2) Hoạt động ngoài vỏ não, dưới vỏ não được phản ánh vào “Logic trực giác xuất thần”.

Logic trực giác xuất thần gồm hai loại:

Thứ nhất gồm các quan niệm, khái niệm lưu truyền từ xa xưa đến nay như tôn giáo, thần linh, linh hồn người quá cố… Khi nhắc đến các khái niệm này người’ ta cảm nhận như sự đồng cảm của các phức “Tâm – Trí”. Một phần cảm nhận ở tâm, đó là những xúc cảm của tim, phần kia là tư duy ý thức của vỏ não.

Thứ hai gồm các biểu hiện không phải là tư duy của vỏ não mà vỏ não chỉ như cái gương phản chiếu logic này, đó là “Trực giác xuất thần”. Ví dụ trực giác về một ngôi mộ, đọc ý nghĩ người khác, nhìn thấy quá khứ, nói đúng hơn là đọc được tiềm thức của người khác… được phản ảnh trên vỏ não người có trực giác mà không cần quá trình suy luận, không sử dụng “logic suy luận”. Khả năng này chỉ thấy ở một số hãn hữu người nào đó và cũng chỉ ở thời điểm nào đó trong quá trình sống của họ và cũng không ổn định, cũng như khó xác định độ chính xác của nó.

Tóm lại, ta chỉ có thể cảm nhận được các hiện tượng “tâm linh” mà không thể suy luận chứng minh cơ chế cụ thể, trái lại, “trực giác tiềm thức” là kết quả làm việc của tiềm thức, giai đoạn hai của quá trình suy luận một vấn đề nào đó, khi vấn đề được tiềm. thức hoàn thiện thì lại xuất hiện ở vỏ não, tương tự như logic suy luận.

Do chỉ cảm nhận được các hiện tượng “tâm linh” dưới dạng hoạt động của “logic trực giác xuất thần” nên xoay quanh vấn đề tâm linh người ta đã có nhiều ý kiến ở các góc độ khoa học khác nhau.

I – Tâm linh dưới góc độ tôn giáo

1. Ý niệm thần linh

Vũ trụ với bề dày lịch sử chừng 14 tỉ năm kể từ vụ nổ Big Bang, nhà thiên văn học Trịnh Xuân Thuần lại đưa ra một giới hạn khá lớn là từ 10 đến 20 tỉ năm, trong khi đó lịch sử trái đất của chúng ta là 24 giờ một ngày, bắt đầu 0 giờ đêm trái đất, một giây của một ngày bằng với 5 vạn năm, một phút bằng khoảng 300 vạn năm, từ khi trái đất chưa có sự sống, trải qua những chặng đường phát triển cho đến khi xuất hiện con người có thể phác họa như sau:

Khởi điểm của trái đất: 0 giờ đêm
Khởi đầu của sự sống trên trái đất: 5 giờ 45 phút sáng
Khởi đầu của động vật có xương sống: 9 giờ 02 phút tối
Khởi đầu của loài linh trưởng: 11 giờ 37 phút tối (đêm)
Khởi đầu của loài người: (có thể) 11 giờ 50 phút tối (đêm)
Vượn cổ phương Nam: 11 giờ 50 phút tối (đêm)
Người lý trí: 6,5 giây trước 12 giờ đêm

Như vậy có thể thấy sự xuất hiện loài người là rất ngắn và cực kỳ gần đây so với lịch sử của trái đất. Nói chung cho đến nay, qua các hóa thạch đào được trên toàn thế giới, các nhà khoa học cho rằng lịch sử loài người sớm nhất là khoảng 7 triệu năm, 5 triệu năm với sự xuất hiện người tiền sử sống trong hang động, não của họ đã khác hẳn loài động vật có vú. 60 ngàn năm trước đây, người hang động Neanderthal đã chôn cất thân nhân bị chết cùng với những vòng hoa, đó có thể là dấu hiệu khởi đầu của ý thức tư duy về tín ngưỡng tôn giáo.

Như vậy phải hàng triệu năm người tiền sử hang động mới có được ý niệm tôn giáo, thời kỳ đầu họ chỉ có ý niệm về “thần linh”. Ra khỏi hang động thì từ cây cỏ đến muông thú, đối với họ đều là thần linh, họ sợ từ cây cỏ đến các muông thú, dã thú vì mọi thứ này có thể gây cho họ sự chết chóc. Cho đến nay ta còn thấy ở các dân tộc da đỏ trong rừng nguyên thủy sâu thẳm có tục lệ thờ thần súc vật như rắn, voi, sư tử…

2. Tâm linh dưới góc độ tôn giáo

Hiện nay trên thế giới có ba tôn giáo lớn là Đạo Kitô giáo, đạo Hồi và đạo Phật. Đạo Phật xuất hiện sớm nhất mà người sáng lập ra là thái tử Cô Đàm -Tất – Đạt – Đa sinh năm 536 TCN ở Ấn Độ.

Kitô giáo xuất hiện dưới hình thức các cộng đồng nhỏ gồm những người nghèo khổ trong các cộng đồng người Do thái lưu tán ở những vùng Tiểu á như Ê-phê-giơ, Smiếc-nơ, Bất- gam, San-đê… Lúc đầu họ sống với nhau theo kiểu tổ chức công xã, các sinh hoạt tôn giáo thực hiện “dưới dạng” của đạo Do thái để tránh sự truy lùng, cấm đoán của chính quyền. Vào khoảng thế kỷ thứ II sau Công Nguyên mới xuất hiện trong các cộng đồng Kitô giáo những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp và hình thành tổ chức giáo hội.

Hồi giáo xuất hiện ở bán đảo ả Rập vào đầu thế kỷ VII sau Công Nguyên, vào tháng 7 năm 662, được coi là mở đầu kỷ nguyên Hồi giáo? Quá trình hình thành đạo gắn chặt với tên tuổi, cuộc đời, sự nghiệp của một nhân vật mà người Hồi giáo coi là lãnh tụ tinh thần, đối tượng được thờ cúng của họ: Giáo chủ Môhamet.

Đạo Hồi và đạo Kitô giáo đều thờ đấng tối cao là thánh Ala, là Thiên chúa, “Thượng đế’. Thánh Ala và Thượng đế sinh ra vũ trụ vạn vật và con người trong vòng 7 ngày. Ngày thứ nhất tạo nên sự sáng và sự tối, đặt tên sự sáng là ngày, sự tối là đêm. Ngày thứ hai tạo ra không gian, quen gọi là trời. Ngày thứ ba tạo nên đất, nước, cây cỏ. Ngày thứ tư tạo ra các tinh tú trên trời làm cơ sở phân chia ngày, đêm, năm, tháng, thời tiết, trong đó có hai vì tinh tú lớn là Mặt Trời cai trị ban ngày, Mặt Trăng cai trị ban đêm. Ngày thứ năm tạo nên muôn vật: chim trên trời, cá dưới nước, muông thú trong rừng. Ngày thứ sáu tạo nên con người. Ngày thứ bảy sau khi hoàn chỉnh công việc Sáng tạo của mình, Thiên chúa nghỉ (còn gọi là ngày chúa nhật hay chủ nhật). Còn Thượng đế của đạo Hồi cũng tạo ra Vũ trụ muôn vật và con người trong 6 ngày, nhưng trật tự. có khác với đạo Kitô, ngày thứ bảy công việc hoàn thành cả thế giới, bao gồm mọi trật tự và những sự hài hòa không thể phá vỡ được.

Trái lại, đạo Phật cho rằng các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ không phải do một đấng thiêng liêng nào tạo ra bằng những phép màu nhiệm, mà nó được tạo nên bởi những phần vật chất nhỏ bé nhất của vũ trụ. Phần nhỏ bé nhất đó được gọi là “bản thể”, là thực tướng của sự vật, hiện tượng. Vũ trụ của Phật là vũ trụ động theo một chu trình “thành trụ hoại không” hay “sinh trụ hoại diệt” và đều bị chi phối bởi quy luật nhân duyên, một sự vật hiện tượng không phải do một nhân duyên mà do nhiều nhân duyên, hệ thống nhân duyên trong vũ trụ là vô tận, sách Phật gọi là “trùng trùng duyên khối”…

Về con người, tuy mỗi tôn giáo quan niệm khác nhau về sự sinh thành nhưng đều có một quan niệm là con người gồm hai phần.

Đạo Phật cho rằng con người gồm một phần là sinh lý là thần sắc hình tướng giới hạn trong không gian bằng xương, thịt, da, được tạo thành bởi bốn yếu tố vật chất, sách Phật gọi là tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong, phần thứ hai là phần tâm lý hay tinh thần, ý thức gồm: “thụ uẩn”, “tướng uẩn”, ” hành uẩn”, “thức uẩn” được biểu hiện bằng “thất tình ” (bảy lĩnh vực tình cảm: ái, ố, hỉ, nộ, lạc, ai, dục).

Con người sau khi chết không phải là hết, sách Phật gọi là “chấp đoạn”. Sau khi chết có linh hồn bất tử tiếp tục đầu thai vào kiếp khác, sách Phật gọi là “chấp thường”, được giải thích bằng các thuyết: nghiệp báo – luân hồi…

Còn đạo Kitô hay đạo Hồi cũng cho rằng con người có hai phần là thể xác và tâm hồn , “linh hồn” sau khi chết được thánh Ala hay Thiên chúa phán xét được lên thiên đường hay xuống địa ngục với những quy định ngặt nghèo về lối sống đạo đức trong quá trình sống giữa người với người, người với muôn vật trên trái đất này.

Tóm lại đạo nào cũng khuyên con người làm điều tốt lành, điều thiện. Đó là cái nhân để trở thành cái quả, để được sang thế giới cực lạc bên kia hay ở niết bàn hoặc xuống địa ngục. Đó cũng là đạo lý, triết lý răn dạy con người, mong con người ngay từ khi sống trên trái đất đã làm các điều tốt lành, tránh điều xấu xa và đó cũng là ước nguyện của các lãnh tụ các đạo giáo hi vọng mọi người đều làm điều tốt lành để trái đất này là thiên đường của sự sống. Song các nhà sáng lập những đạo đó cũng nghĩ rằng khó lòng thực hiện được “thiên đường” trên trái đất nên đã tạo ra cho con người một niềm tin ở tương lai bên kia thế giới cực lạc hay hình phạt dưới địa ngục, luân hồi.

Những giáo lý, lời khuyên đó cũng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển nhân văn của con người trên trái đất này.

3. “Thần linh”, “tâm linh”

Xem như thế loài người từ ý niệm “thần linh” phải trải qua một thời gian dài. từ cuộc sống bầy đàn bộ tộc đến đời sống xã hội mới nảy sinh được ý niệm về “thần linh”, “tâm linh”. Như vậy, ý niệm về “thần linh”, “tâm linh” cũng thay đổi với thời gian và sự phát triển của xã hội về các mặt kinh tế, chính trị , văn hóa… Ngày nay ở phương Tây nhất là các nước phát triển cao, đối với nhiều người quan niệm về tâm linh đã phai mờ, họ đến nhà thờ không để mong lên thiên đường mà đến nhà thờ giống như cái mốt của sự thư giãn mà thôi.

Quả như vậy, nếu Chúa đã sinh ra con người với quyền năng của mình chẳng lẽ lại để đạo Kitô phân tán, đấu tranh gay gắt đến nay không chỉ có một đạo Giatô mà hình thành nhiều phái như đạo Tin lành, đạo Thiên chúa Anh quốc… Ngày nay khoa học phát triển như vũ bão, tri thức của loài người cũng phát triển, thay đổi nhanh chóng. Các nhà khoa học đã sản xuất ra được cừu Dolly và nhiều loại động vật khác mà không cần có sự phối giống giữa đực và cái, việc tạo ra con người kiểu như Dolly không còn là vấn đề kỹ thuật nữa, đến lúc đó ý niệm về “thần linh”, “tâm linh” chắc sẽ còn thay đổi nhiều.

II – Tâm linh dưới góc độ tâm lý xã hội

Khoa học đã phát triển, đặc biệt là sinh học đã xác lập được bản đồ gien “mật mã di truyền”, nắm được quy luật phát triển sinh học nhưng cũng chưa phải đã hiểu hết, trái lại, việc điều khiển các quy luật đó còn rất hạn chế. Khi nói về vấn đề này, có một dẫn dụ bản thân khá lý thú: con tôi giống tôi về diện mạo, ngoại hình, nhưng lại giống bà nhà tôi về tri thức. Chính vì chưa điều khiển được các quy luật khoa học, sinh học nên con người còn phải trông chờ vào sự may rủi.

Khi được may mắn đạt ý nguyện, thường là không nhiều, cũng như khi rủi gặp điều bất hạnh, con người đành tin là có sự sắp xếp an bài của một đấng vô hình. Và cũng từ đó con người nảy sinh tâm lý đi tìm hiểu vấn đề để lý giải trước tiên nhờ vào khoa học, nhưng như chúng ta đã biết, khoa học tuy đã giải đáp được khá nhiều vấn đề, hiện tượng tự nhiên, nhưng vẫn chưa giải đáp được tất cả. Do đó con người phải đi tìm hiểu ở những người có khoa học “trực giác xuất thần”, hoặc cầu xin đấng tối cao nơi này nơi khác ở các tôn giáo tùy theo lòng tin của họ theo tôn giáo nào đó.

Tâm lý gia đình – Tế bào xã hội:

Gia đình là tế bào của xã hội, chuẩn bị cho một đứa trẻ chào đời, người làm cha mẹ đặt vào đó bao ước vọng và mong muốn, đi kèm theo đó là bao nỗi lo lắng, “cầu xin mẹ tròn con vuông”, ước vọng một tương lai sáng sủa cho một đứa con. Chưa có khoa học chính xác nào trả lời được câu hỏi này, vì thế ông bà, cha mẹ đi tìm hiểu vào tử vi tướng mạo… Đó cũng là tâm lý tự nhiên khi người ta không có được lời giải đáp của một khoa học, khoa học chính xác dự báo tương lai của họ. Thực ra cũng sẽ mãi mãi chẳng có được khoa học chính xác để dự báo bởi lý do sau đây:

Một phôi thai là sự tổ hợp gien của bố mẹ và cả những gien trội, lặn của ông bà, các cụ mà khoa học cho đến nay chưa hiểu biết và cũng chưa điều khiển được quá trình phối hợp gen này theo ý muốn, để tạo ra những con người hoàn chỉnh ưu việt về thể chất, ngoại hình cũng như tri thức sáng tạo. Tuy vậy khoa học sinh học cũng đã có bước tiến bộ lớn và phát hiện những khuyết tật gien gây nên các khuyết tật của phôi do gien của bố hay mẹ. Cho dù sau này khoa học có tiến bộ đến mức có thể điều khiển sự phối hợp gien theo ý muốn, song trong suốt quá trình phát triển thai về sau này, cả một quá trình phát triển đứa trẻ đến trưởng thành vào đời, với sự tương tác với môi trường sống, môi trường nhân văn xã hội là cả một quá trình đấu tranh giằng co phức tạp.

Hai là từ lúc chào đời cho đến lúc xuôi tay, mỗi con người đều có bao ước vọng, bao hoài bão, những ước mơ, mục đích… Bên cạnh đó còn phải đấu tranh với cuộc sống, xã hội luôn luôn biến động, biết bao yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, tệ nạn… tác động đến từng con người. Mỗi hình thái xã hội đều để lại cho mỗi người nơi đó một tâm lý với đặc thù riêng của từng xã hội. Nói chung không mấy ai đạt được đầy đủ điều mình mong ước, người được mặt này lại mất mặt kia.

Tóm lại, khoa học ngày nay chưa giải đáp và cũng chưa dự báo được cho con người những điều mà họ cần biết về sự ra đời của họ, những điều trong hiện tại và dự báo tương lai của họ. Vì thế họ đi tìm hiểu ở những khoa học cổ xưa, một khoa học không dựa trên thực nghiệm mà chỉ là kết quả của chiêm nghiệm không chứng minh mà chỉ công nhận, khoa học đó là kết quả của “trực giác xuất thần” của một số người nào đó.

III – Tâm linh dưới góc độ khoa học cơ bản

1. Giác quan và vật chất

Thiếu một giác quan nào đó, ý thức về vật chất sẽ không chính xác ví dụ câu chuyện năm người mù mắt dùng xúc giác tay sờ vào con voi và mỗi người nhận thức về con voi một khác, thành theo năm cách nhận thức khác nhau. Tuy giác quan cho phép ta tìm hiểu bản chất vật chất xung quanh nhưng sự tìm hiểu đó chỉ mang tính chất định tính không mang tính định lượng hoàn hảo, nó phụ thuộc nhiều vào cảm tính chủ quan của mỗi người, hơn nữa còn phụ thuộc vào thời điểm xác định vật chất với sức khỏe lúc bấy giờ, vì vậy bản chất của vật chất chỉ có thể đánh giá khách quan chính xác bằng phương tiện khoa học. Với cảm giác, ta biết được sắt, đồng, chì… là vật chất đặc, nhưng dưới mắt nhà khoa học nó không như vậy.

2. Giác quan của các nhà khoa học về vật chất

Các nhà khoa học thiên văn nghiên cứu thế giới vĩ mô. Năm 1929, Edwin Hubble quan sát dù ở đâu cũng thấy các ngôi sao, các thiên hà chuyển động rất nhanh xa chúng ta. Nói cách khác, vũ trụ đang giãn nở và cũng có nghĩa là ở những thời gian trước kia các vật gần nhau hơn.

Các nhà vật lý lý thuyết lại nghiên cứu thế giới vi mô tức là nghiên cứu cấu trúc nội tại của nguyên tử. Chúng ta cũng đã biết một nguyên tử gồm một hạt nhân mang điện dương và các điện tử (electron) mang điện âm chạy xung quanh theo quỹ đạo riêng của nó. So với nguyên tử hạt nhân cực kỳ nhỏ bé, nếu phóng to nguyên tử lên bằng giáo đường Peter tại Rome thì hạt nhân của nó cũng chỉ bằng hạt cát, một hạt cát nằm giữa giáo đường, đâu đó trong giáo đường vài đám bụi nhỏ đang tung vãi. Như vậy, ta có thể hình dung ra hạt nhân và electron của một nguyên tử. Qua đấy, ta thấy một nguyên tử quả là rất rỗng, mặc dầu cảm giác của ta thấy nguyên tử (đồng, chì, kẽm…) thật là đặc.

Ngay cả hạt nhân (proton và nơtơron) cũng không đặc mà cấu tạo bởi các hạt nhỏ nữa và gọi là “hạt nguyên tử”, các hạt này cũng luôn chuyển động.

Tóm lại, trong thế giới vật chất dù ở tầm vĩ mô hay vi mô, vật chất luôn chuyển động. Sự chuyển động theo quy luật được chi phối bởi bốn lực sau:

· Lực hấp dẫn yếu nhất trong bốn lực: luôn là lực hút
· Lực điện từ: lực liên kết giữa các electron và hạt nhân, chẳng hạn lực điện từ giữa hai electron lớn gấp triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu (l với 42 số tiếp sau) so với lực hấp dẫn giữa chúng.
· Lực hạt nhân yếu: gây ra phóng xạ
· Lực hạt nhân mạnh: giữ cho các hạt quark ở trong proton và cũng giữ cho các proton và nguồn ở trong hạt nhân nguyên tử.

Trong bốn lực trên, thì lực điện từ liên quan nhiều đến sự sống, có nhà khoa học cho rằng lực điện từ là cơ sở của các hiện tượng Cận tâm lý “tâm lý”, cơ chế như thế nào họ cũng chưa hiểu rõ đầy đủ song họ cho rằng nó liên quan, tương tác với hoạt động điện từ của hệ thần kinh.

Đơn vị sinh học hoàn chỉnh, cơ sở cấu thành cơ thể con người là tế bào, tập hợp những tế bào có chức năng như nhau cấu thành các tổ chức như xương, biểu mô, thần kinh… Nhiều tổ chức họp lại thành cơ quan hay bộ máy như bộ máy hô hấp, bộ máy tuần hoàn, bộ máy tiêu hóa… Tế bào, tổ chức, cơ quan là tổ chức sống, là thành phần hữu cơ nếu không cơ thể không thể sống và hoạt động. Để cơ thể sống và hoạt động được thì ngoài chất sống hữu cơ (các tế bào mô kể trên còn có các protein, nội tiết tố, men…) còn phải kể đến các chất không sống vô cơ, đó là các muối khoáng, các chất ion: Na+, K+, Cl-, Mg++… tham gia vào hoạt động của cơ thể. Ví dụ, nếu không có Na+, K+ tham gia vào sự thay đổi diện tích màng tế bào thần kinh thì bộ máy thần kinh ngừng hoạt động và cơ thể sẽ chết.

Tóm lại, cơ thể con người hoạt động được là nhờ những hoạt động tương tác giữa chất không sống (vô cơ) và chất sống (hữu cơ), các chất không sống tức là các nguyên tố cũng bị chi phối bởi một trong bốn lực trên. Trong cơ thể sống không xẩy ra phản ứng hạt nhân nên không chịu ảnh hưởng của hai lực hạt nhân yếu và mạnh. Lực hấp dẫn luôn tác động đối với con người, giữ cho con người đứng thẳng trên trái đất, có lẽ không có quan hệ đến các hiện tượng tâm linh, nó có thể tác động đến hoạt động sinh học và hoạt động ý thức khi con người lên vũ trụ, thoát khỏi sức hút của trái đất, trong trạng thái mất trọng lượng. Còn lại lực điện từ có lẽ có thể có tác động đến hệ thống chất không sống, qua đó liên quan đến hệ thống sống mà chủ yếu là hoạt động của hệ thần kinh thực vật.

Các nhà lý thuyết vật lý sinh học giải thích hiện tượng tâm linh như thần giao cách cảm là khả năng phát và thu thông tin qua bức xạ điện từ vùng radio phản xạ trên tầng điện ly. Đọc ý nghĩ của người khác là đọc tín hiệu điện từ của xung thần kinh chạy trong mạng nơron. Theo cách giải thích của các nhà vật lý sinh học thì mọi hiện tượng tâm linh có thể giải thích chủ yếu là sự tương tác của những người có khả năng dị thường với bức xạ tàn dư của các sự vật, hiện tượng.

Tuy vậy, nhà vật lý sinh học cũng thừa nhận rằng những hiện tượng tâm linh này vẫn còn nằm trong xác suất ngẫu nhiên, có nghĩa là độ chính xác, độ tin cậy chưa xác định được, đó là chưa kể đến độ bền vừng của những người có khả năng dị thường này.

IV – Hiện tượng tâm linh dưới góc độ y sinh học

Hiện nay các nhà khoa học đã tạo ra được con cừu Dolly, trong tương lai còn có người nhân tạo vô tính kiểu như cừu Dolly, điều này không còn là không tưởng nữa. Những con người nhân tạo này được tạo ra theo ý muốn của nhà khoa học với một loại hình kiểu gien theo ý muốn của họ. Vậy, với những con người nhân tạo này thì ý niệm về tâm linh sẽ ra sao?

Chúng ta cũng đã thấy hiện nay không phải mọi người đều tin vào tâm linh, linh hồn, rất nhiều người không tin vào thần thánh: “vô thần”. Ngay cả những người tin vào thần thánh thì mỗi người lại theo một tín ngưỡng, tôn giáo riêng và thờ một vị thánh khác nhau.

1. Vật chất và ý thức

Một tinh trùng, một trứng chỉ là hai tế bào vật chất, mỗi loại không thể có một ý thức riêng, khi tinh trùng xâm nhập vào trứng tạo ra một tế bào mới với sự phối hợp gien, sau đó phân chia 2, 4… để thành phôi và phát triển thành phôi thai. Phôi nếu có ý thức thì ý thức sẽ xuất hiện từ khi nào: khi tinh trùng xâm nhập vào trứng hay khi đứa trẻ chào đời và nếu có ý thức thì ý thức sẽ thuộc hệ tinh trùng hay hệ trứng, hoặc phôi, hay đứa bé chào đời có ý thức riêng, như vậy ý thức của trứng hay tinh trùng sẽ chuyển thể hoặc sẽ cộng hưởng tạo thành ý thức mới của bào thai.

Tóm lại, khó có thể nói ý thức có trước khi đứa bé chào đời, hay khi còn là phôi thai. Với ý thức, chỉ có thể có trong quá trình phát triển trưởng thành mà do tương tác giữa cơ thể sinh vật (đứa bé lớn lên đến tuổi trưởng thành rồi thoái triển khi tuổi già để rồi qua đời) với môi trường tự nhiên, cũng như môi trường xã hội nhân văn, mới hình thành đầy đủ ý thức của con người.

2. Ý thức với phản xạ

Chúng ta đã biết rằng có hai hệ thần kinh: một là hệ thần kinh động vật chỉ đạo tư duy ý thức và vận động ý thức và hai là hệ thần kinh thực vật chỉ đạo các hoạt động tự động. Hoạt động của thần kinh là hoạt động phản xạ của các cung phản xạ: tủy, não tủy, não bộ. Mỗi cung phản xạ gồm ít nhất hai tế bào thần kinh (nơron) chức năng là vận động và cảm giác được liên kết lại bởi những tế bào thần kinh liên hợp không giữ chức phận gì ngoài khả năng liên kết. Hoạt động ý thức dựa trên hoạt động điện và điện hóa. Nếu ngừng trệ hay hủy hoại cung phản xạ nào đó, thì ý thức thuộc lĩnh vực đó sẽ mất, ví dụ: hỏng cung phản xạ thị giác sẽ gây mù, hỏng cung phản xạ vận động sẽ bị liệt và mất cảm giác và nếu các cung phản xạ não bộ hoạt động sai lạc sẽ gây ra các chứng bệnh như đã nói ở trên và con người mất ý thức.

Con người là động vật cao cấp sau loài động vật có vú. Nhưng khi đứa trẻ ra đời thì những phản xạ lại xuất hiện chậm hơn so với động vật có vú. Con bò, dê sau khi ra khỏi bụng mẹ vài giờ là có thể tự đi lại, biết tìm vú bú ngay và cũng biết theo mẹ ngay. Ngược lại, con người phải có một thời gian dài mới biết tìm vú bú mẹ, người mẹ phải đặt vú vào miệng, đặc biệt là phải hàng tháng sau mới vận động đi lại và biết theo mẹ. Động vật có vú cũng đủ năm giác quan, có cung phản xạ não bộ, nhưng lại không có ý thức được như con người bởi vì con người có số lượng nơron liên hợp lớn gấp tỉ lần so với loài động vật có vú, chính vì thế mà não bộ con người có gấp hàng tỷ tỷ các cung phản xạ so với loài động vật có vú, cũng hình khối lượng lớn này đã tạo cho bộ não người khác loài động vật có vú (lượng biến thành chất) là ý thức con người. Tóm lại, người và động vật, động vật gần nhất là loài có vú, cũng có bộ não tương tự nhau về cấu trúc nhưng lại khác nhau về chức năng, đó là hoạt động ý thức của vỏ não trên cơ sở khối lượng khổng lồ các cung phản xạ của não bộ con người. Ngược lại, các loài động vật cấp thấp thua kém con người về hoạt động ý thức của vỏ não, nhưng lại hơn con người về trực giác đó là hoạt động của hệ thần kinh thực vật.

Động vật cấp thấp có thể giao tiếp với nhau hay với môi trường nhờ các sóng như sóng siêu âm phát ra ở loài dơi, sóng điện từ với một số loài cá, sóng âm tần thấp của loài voi… Đây là cơ sở có thể giúp ta lý giải các hiện tượng tâm linh.

3. Hiện tượng tâm linh dưới góc độ sinh học

Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển phôi thai người, về mặt khoa học người ta cũng đã thấy phôi người phát triển qua các giai đoạn của loài động vật cấp thấp: ở một số người trong quá trình chuyển hóa phôi đã để lại các vết tích của loài động vật cấp thấp. Ví dụ, có một số phụ nữ ngoài hai vú chính còn có hai đến bốn vú phụ là di tích của loài động vật có vú, có người xương cụt dài như cái đuôi của khỉ chẳng hạn, có người còn lại u cạnh cổ kiểu mang là di tích của mang loài cá.

Những di tích còn lại trong quá trình phát triển thai người kể trên thuộc những vết tích thực thể thấy được, ở một số người khác biết đâu lại không thể để lại di tích chức phận hệ thần kinh thực vật có các chức năng phát các sóng siêu âm, sóng điện từ hoặc sóng âm tần thấp… Chính nhờ các chức năng này, mà một số người có những khả năng tiếp giao với người khác qua trực giác mà ta gọi là giác quan thứ sáu như đọc được ý nghĩ của con người, thần giao cách cảm. Có người lại có thể thấy được ngày chết của người khác, do tương tác với chương trình chết tế bào của người nào đó, nhất là cái chết đột quỵ đối với một số tổ chức như tim, thần kinh… (giải thưởng Nobel 2002 “gen chết” ced-3 và ced-4 trên con giun, gen này giống gen ced-3 ở người).

Việc phát hiện mộ có thể giải thích bằng cơ chế này, khi hài cốt còn tồn tại là vật chất thế nào cũng phát ra một sóng điện từ chẳng hạn và người tìm mộ là người có khả năng phát ra sóng nào đó có thể tiếp giao với sóng của hài cốt phát ra. Vì thế, nếu hài cốt đã thiêu thì các nhà ngoại cảm đều không thể tiếp xúc được nữa vì tro không phải là tổ chức mang điện tích nên không có trường vật chất.

V – Kết luận

Hiện tượng tâm linh là một loại hiện tượng tinh thần đặc trưng ở con người, biểu hiện ở một số người như là giác quan thứ sáu, có cơ sở là vết tích của “logic trực giác xuất thần” của loài động vật cấp thấp để lại trong quá trình phát triển thai người.

Hiện nay, khoa học, nhất là ngành y sinh, đã có những tiến bộ đột phá, tuy vậy vẫn chưa thể điều khiển gien để tạo ra những con người theo ý muốn hoàn chỉnh ưu việt về thể chất, ngoại hình cũng như tri thức sáng tạo. Song, dù khoa học có tiến bộ như vậy, nhưng yếu tố gen chỉ chiếm nhiều nhất là hơn 90%, còn lại là yếu tố tương tác môi trường xã hội nhân văn đối với từng con người khi sinh ra đến lúc xuôi tay.

Cho đến khi nào khoa học sinh học phát triển đến mức có thể điều khiển được để” sinh sản ra được những con người theo ý muốn và đồng ‘thời xã hội nhân văn kinh tế… phát triển đến mức như chủ nghĩa Mác mong muốn là của cải vật chất xã hội đầy đủ, thừa thãi để thực hiện được khẩu hiệu “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu thì lúc đó chắc các hiện tượng tâm linh sẽ không còn chỗ đứng bởi vì con người khi đó sẽ không còn nhu cầu về tâm linh.

Tags: khoa học, nghiên cứu
(www.chuakyvien.org)

Bài viết trong chuyên mục: Phật giáo & Khoa học

http://chuakyvien.org/phat-hoc/phat-giaokhoa-hoc/hien-tuong-tam-linh-duoi-cac-goc-nhin.html

Người đăng bài: chaudat | 08/30/2011 | 0

(www.chuakyvien.org)

 
blog Nguyễn Hoài Vân
            Lịch sử người Việt tại Pháp có thể đem ta lùi về rất xa trong quá khứ, không chừng phải lần lên đến tận Hoàng Tử Cảnh, con Vua Gia Long. Ông Hoàng này đến Pháp năm 1787, tại Lorient, nay là một quân cảng không xa nơi tôi ở, sau một cuộc hành trình hơn hai năm rưỡi ! Hoàng Tử Cảnh đã mở màn cho một loạt giao tiếp Việt Pháp. Có những giao tiếp bi đát như việc quan Hiệp Biện Đại Học Sĩ Phan Thanh Giản sang sứ năm 1863, để xin chuộc lại ba tỉnh Nam Kỳ bị Pháp cưỡng đoạt, cùng với Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản.

            Mặt khác, những “sinh viên” Việt Nam du học Pháp Quốc đầu tiên có lẽ là những người Nghệ An Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều, Nguyễn Đức Hậu, về nước vào khoảng năm 1866, và được biết đến nhiều qua bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, kêu gọi canh tân đất nước. Còn làn sóng người Việt đầu tiên lan đến nước Pháp có lẽ là những lính phu bị bắt sang phục vụ trong thế chiến thứ nhất (1914). Tôi có được gặp một cụ già Việt Nam trong trường hợp này, tại một quán cà phê trong khu Maubert, Paris. Cần nói là cũng trong giai đoạn ấy đã có những người Việt Nam thuộc giới thượng lưu sang Pháp học hành, và gia nhập quân đội với cấp bậc cao, như Nguyễn Văn Xuân, cựu sinh viên trường Kỹ Sư lừng danh Polytechnique (trường này cho đến cách đầy vài năm thuộc Bộ Quốc Phòng). Trong đệ nhất thế chiến, ông là một đại úy từng lập những chiến công hiển hách, khiến ông được thăng chức nhanh chóng và mang lon Tướng (Trung Tướng ?) năm 1947 khi về Việt Nam đảm nhận chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ Lâm Thời Nam Phần Việt Nam, rồi Thủ Tướng hai miền Việt Nam sau đó.

            Không thể kể hết chuyện người Việt tại Pháp từ thế kỷ 18, tôi xin chỉ nhắc qua vài việc, vài người tương đối có tiếng tăm, ở gần chúng ta hơn, từ các thập niên 20 và 30 của thế kỷ này.

            Một trong những người Việt đầu tiên được dư luận Pháp chú ý đến, là Nguyễn Ái Quốc, “hóa thân” của “bác Hồ vĩ đại” sau này. Năm 1920, tại Hội Nghị Tours của phong trào thợ thuyền, ông là một trong những đại biểu được mời lên diễn đàn. Những câu phát biểu của ông được thu hình và lâu lâu vẫn được đài truyền hình Pháp phát lại trong những chương trình về lịch sử. Lúc ấy Nguyễn Ái Quốc còn hoạt động chung với nhóm của cụ Phan Châu Trinh tại Pháp. Trong nhóm này còn có Phan Văn Trường Nguyễn An Ninh, và Nguyễn Thế Truyền. Nguyễn An Ninh khi đó chỉ vừa 21 tuổi, học Luật ở Paris. Nguyễn Thế Truyền thì học Khoa Học ở Toulouse, rồi đổi sang Văn Khoa ở Paris. Cụ Phan Châu Trinh làm thợ hình ở Pons. Mãi đến năm 1923 Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) mới đi Moscou học làm cách mạng chuyên nghiệp, mặc dù sự ngăn cản của cụ Phan Châu Trinh trong một bức thư còn lưu lại. Ở Hội Nghị Tours nói trên, Léon Blum, sau làm thủ tướng, đã chất vấn phe Cộng Sản đệ tam rằng :“các ông muốn lấy chính quyền để cải tạo xã hội hay muốn sử dụng chiêu bài cải tạo xã hội để lấy chính quyền ?” Đây chính là câu hỏi căn bản luôn phải được đặt ra với người CS. Sau Hội Nghị Tours, phe thần phục Liên Sô quyết định ly khai khỏi tổ chức, để trở thành Đảng Cộng Sản Pháp. Tổ chức SFIO (phân bộ Pháp của Quốc Tế Thợ Thuyền, cụ Trần Văn Ân gọi là đám “sách dép dzô"), chỉ còn lại những người Xã Hội, tiền thân của đảng Xã Hội hiện cầm quyền tại Pháp.

            Trong thập niên 20 người ta còn thấy ở Pháp nhiều nhân vật Việt Nam danh tiếng khác như các ông Tạ Thu Thâu, Dương Văn Giáo, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Trịnh Đình Thảo, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Ân, v.v...

            Về tổ chức thì có các đảng chính trị như :

-đảng An Nam Độc Lập (Parti Annamite de l'Indépendance) của Nguyễn Thế Truyền, sau giao lại cho Tạ Thu Thâu,

-đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo
-đảng CS đệ tứ với lãnh tụ Tạ Thu Thâu, và các đồng chí Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà...
-đảng CS đệ tam với Liêu Sanh Trân sau làm tới ủy viên trung ương của đảng CS Pháp, rồi chết vì lao phổi, Nguyễn Văn Tạo, sau làm bộ trưởng Lao Động, Trần văn Giàu...
-và có thể còn những đảng phái khác mà tôi quên đi hay không được biết.

            Ngoài ra, trên mặt tương trợ thì có hội AMI (Association Mutuelle des Indochinois - Hội Tương Trợ Đông Dương) do Trần Văn Thọ làm chủ tịch, Trần Văn Ân làm chủ tịch danh dự, trụ sở ở số 10 rue Torte, Vieux Port, Marseille. Trần Văn Thọ là người đánh Đốc Phủ Nguyễn Văn Vịnh bể đầu khi ông này nhận lệnh Thống Đốc Nam Kỳ Pagès (hay Blanchard de la Brosse ?) sang Pháp yêu cầu tăng cường trừng trị những người chống đối chính quyền thực dân như Nguyễn An Ninh. Ông Thọ làm bồi tàu, chờ Đốc Phủ Vịnh xuống đến bến Marseille, vừa ra khỏi quan thuế thì dùng gậy hành hung ông này. Lúc đó, có người Pháp tên là Frascetto, chủ khách sạn và nhà hàng Continental, gần đó nhảy tới bênh vực đốc phủ Vịnh, đập nhau với ông Thọ. Việc này do cụ Trần văn Ân chứng kiến kể lại vào năm 95 tuổi ! Trần Văn Ân do sự khuyến cáo của LS Dương Văn Giáo, tổ chức biểu tình chờ sẵn đốc phủ Vịnh trên bến, nhưng cấm không cho ai đem theo vũ khí. Ông Thọ ra tòa, được luật sư CS tên là Henry biện hộ, sau trong tù học được nghề đan ghế !

         Về nhân vật xin kể qua :

-Dương Văn Giáo làm luật sư, tổng thư ký đảng Lập Hiến, nhà ở số 39 đường Dufour - Paris 6è, mãi tận lầu 6, ai đến thăm leo hụt hơi ! Ông có tài biện hộ, mặc dầu làm biếng đọc hồ sơ. Năm 1928, ông về Việt Nam, và đến năm 1941 bị ra tòa vì tội phản loạn cùng với Phan Khắc Sửu, Võ Oanh, Trần văn Ân, Trần Quốc Bửu, Ngô Đình Đẩu, v.v..., tức những người chủ trương đảng Nhân Dân Cách Mạng. Luật sư biện hộ cho nhóm này là Trịnh Đình Thảo. Dương Văn Giáo trốn khám Tây rất tài tình, để rồi bị giết trong tay CS đệ tam năm 1945, ở Phan Thiết.


-Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông, một trong những người đầu tiên đi khắp nước Pháp diễn thuyết chống chế độ thuộc địa, thành lập đảng Lập Hiến, sau bị CS sát hại tại Tân An năm 1945.


-Nguyễn Thế Truyền thành lập đảng Độc Lập, sau có tranh cử Tổng Thống với ông Ngô Đình Diệm.


-Hồ Văn Ngà, học Centrale, trường kỹ sư danh tiếng bậc nhất nước Pháp cùng với Polytechnique. Ông là một nhân tài của phe Đệ Tứ, sau bị CS đệ tam giết ở Kim Quy Đá Bạc, Rạch Giá, năm 1945 (ông Ngà bị nhốt chung với Trần Quang Vinh, một tối được anh gác khám là học trò cũ mời về nhà dùng cơm, rủi thay trong lúc đó Nguyễn Thành Phương và Vũ Tam Anh đến phá khám cứu thoát ông Vinh, hôm sau H.V.Ngà bị đập chết bằng củi đòn).


-Tạ Thu Thâu, sang Pháp năm 1927, đem theo 10 học trò nhà giàu để có tiền tàu và tiền ăn. Ông học toán đại cương ở Sorbonne, Paris, trở thành lãnh tụ đệ tứ lỗi lạc, sau thay Nguyễn Thế Truyền làm chủ tịch đảng Độc Lập. Báo của đảng là tờ “Hồi Sinh” (Résurrection). Đảng Độc Lập bị giải tán sau vụ ẩu đả với thanh niên cực hữu Pháp ở nhà hàng Turquetti vào năm 1929, có Đỗ Đình Thạch tức Pierre Đỗ Đình tham dự. Ngày 24 tháng 6 năm 1930, vì tổ chức biểu tình chống thực dân sau vụ Yên Bái, ở trước điện Elysée, Tạ Thu Thâu bị trục xuất cùng với 19 người trong đó có Phan Văn Hùm, Phan Văn Gia, Hồ Văn Ngà, Trần văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Trần văn Phú, Vũ Liên... Ông bị CS đệ tam giết ở Cánh Đồng Dương, Quảng Ngãi, năm 1945. Học trò ông là Hoàng Đôn Trí sau này tiếp tục phong trào Đệ Tứ ở Pháp, đặc biệt là trong giai đoạn Công Binh sẽ nói ở phần sau.


-Trần Văn Giàu học ở Toulouse, là người có đại công với CS đệ tam ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến. Tạ Thu Thâu lúc cùng ở Pháp, rất thương Giàu, có sách vở gì hay, đều đem cho Giàu đọc. Giàu là người lãnh trách nhiệm trực tiếp trong việc giết Tạ Thu Thâu. Như nhiều người miền Nam khác có công với CS, ông không được trọng dụng, và “lêu têu cứu quốc” đến bây giờ. Cách đây vài năm ông có sang Pháp dự một hội nghị về sử học. Ông Giàu có tiếng là một lý thuyết gia Marxiste có tầm cỡ.


-Trần văn Thạch học Văn Khoa ở Toulouse, đỗ Cử Nhân, cùng với Phan Văn Hùm, cao đẳng Công Chánh, là những tinh hoa của Đệ Tứ, đều bị CS đệ tam bắt ở Thủ Đức vào tháng 10 năm 1945, rồi bị đập đầu liệng xuống sông cùng với ít nhất là 64 người Đệ Tứ khác, tại Phan Thiết.


-Trần Văn Ân, sang Pháp với hai học trò nhà giàu để có tiền ăn, tiền tàu. Ông học Arts et Métiers tại Aix en Provence cùng với Trần Văn Bạch, sau hết tiền và bệnh nặng phải bỏ học. Ông ở Aix số 29 đường République, thuê nhà của ông Larger, cựu chiến binh Đông Dương. Ông Larger có vợ người Bắc. Bà nói chuyện nửa tây nửa ta, kiểu như muốn dặn đóng cửa coi chừng gió đập bể tủ thì bà bảo : “ắt tăng xông gió tắp cái đùng già na cát xê tủ !"(attention là coi chừng ; casser là làm bể), xin ghi lại để nhắc qua vài sắc thái vui vui của một số người Việt tại Pháp thời đó.
            Cùng ở Aix en Provence lúc đó có Nguyễn Văn Tạo và Liêu Sanh Trân. Trần Văn Ân làm chủ tịch danh dự hội Tương Trợ Đông Dương, vào đảng Độc Lập, và làm chủ bút An Nam Học Báo (L'Annam Scolaire). Báo này ngay từ đầu đã bị cấm đưa vào Đông Dương. Ông kết thân với Thâu, Thạch, Hùm, Chánh, và nhóm Đệ Tứ. Ông cũng làm bạn vong niên với Dương Văn Giáo. Năm 1927, ông làm phó chủ tịch Đại Hội Sinh Viên Đông Dương. Sau nhờ bạn bè quyên tiền tặng, ông mới theo được tàu Pasteur về nước, làm báo, tham chánh nhiều lần và ngồi tù tử hình Côn Đảo 9 năm. Năm 1948, đang làm Tổng Trưởng Thông Tin cho Chính Phủ Lâm Thời Nam Phần Việt Nam, ông bị Tướng de la Tour dọa giết vì hành vi chống thực dân, nên trở sang Pháp lánh nạn và đi diễn thuyết chống thực dân ở nhiều nơi, nổi bật nhất là vào tháng 10 năm 1948, tại Palais de la Mutualité (nơi sau này Tổng Hội Sinh Viên Paris hay tổ chức Tết, và đồng bào mình hiện nay thường tổ chức hát Cải Lương), dưới sự chủ tọa của Chủ Tịch Liên Minh Nhân Quyền (Ligue des Droits de l'Homme). Ông giao thiệp với đảng viên xã hội SFIO (sách dép dzô !), và nhờ sự can thiệp của họ để được trở về nước tiếp tục hoạt động.

            Một việc đáng chú ý của giai đoạn này là Đại Hội Sinh Viên Đông Dương lần thứ nhất họp tại Aix en Provence, năm 1927, từ ngày 19 đến 22 tháng 7, quy tụ đại biểu các nơi. Ủy ban tổ chức do Luật Sư Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch, Trần Văn Ân làm Tổng Thư Ký. Ông Thảo sau là một trong những sáng lập viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Sau khi khai mạc, Đại Hội bầu Trần Văn Thạch làm Chủ Tịch, Trần Văn Ân làm Phó, Dương Văn Giáo làm báo cáo viên. Trong số những người tham dự có Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh (đang đi một vòng diễn thuyết), Nguyễn Văn Báu (sau làm Đốc Phủ, Đổng Lý cho Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân, rồi làm việc tại Bộ Ngoại Giao thời Thủ Tướng Nguyễn Phan Long). Đại Hội yêu sách nhiều điều với chính quyền Pháp, cho sinh viên du học, và cho nền giáo dục ở Việt Nam.

            Đến thế chiến thứ hai, thì một đợt công binh và chiến binh Việt Nam lại bị cưỡng bách sang Pháp (thiểu số duy nhất tình nguyện là lính khố đỏ). Lịch sử của họ được Đặng Văn Long, một nhân chứng và học giả kể lại trong một tác phẩm rất giá trị vừa được “Tủ sách Nghiên Cứu” (BP 246 , 75224 Paris Cedex 11) phát hành năm nay, với tựa đề “Người Việt tại Pháp 1940-1954”. Họ trở thành tập thể đông đảo nhất trong số người Việt tại Pháp lúc bấy giờ, có lúc lên đến 4 vạn người. Ngoài họ ra, là một số trí thức còn đang học hay đã đi làm, cũng như những người bồi bếp, vú em, thủy thủ, thương gia, và lính phu bị bắt sang Pháp từ thế chiến thứ nhất, như đã nói ở trên. Cần nhắc lại là Hoàng Tử Cảnh vào cuối thế kỷ 18 đã ký hiệp ước nhận đóng góp binh sĩ cho Pháp khi cần, và sau này triều đình Huế năm 1939 lại ký một thỏa ước nhượng cho Pháp 5 trăm ngàn người gửi sang"mẫu quốc”, đem lại sự “biện minh” pháp lý cho những thảm kịch bắt phu, bắt lính trong hai cuộc thế chiến.

            Đời sống của những người lính tha hương này vô cùng cơ cực. Không những họ bị hành hạ bởi các quan tây trịch thượng rẻ khinh bọn “mọi thuộc địa”, mà còn bị đám đội quản, thông ngôn, giám thị Việt Nam dựa thế Tây mà hống hách bóc lột, ăn lận lương thực, áo quần, giầy dép. Đó là chưa kể đến bọn du đãng hoành hành trong các căng trại, với các tệ nạn say sưa, cờ bạc, đĩ điếm... bòn rút của những người lính xa nhà này chút lương tiền chắt chiu còn dành dụm được. Đa số đều không biết chữ, kể cả chữ quốc ngữ, đừng nói chi đến chữ Pháp, nên chẳng thể nào tự bảo vệ quyền lợi của mình. Ai rục rịch phản kháng là lập tức bị tống giam trong điều kiện cùm gông tàn nhẫn, thời gian không dưới ba tháng rưỡi. Đói lạnh, ăn ở thiếu vệ sinh mà lỡ có đau ốm thì phải đút lót hối lộ mới được chạy chữa, kể cả trong bệnh xá dành cho họ. Một thống kê thực hiện trên 14846 Công Binh, cho biết có 1050 người chết, đại đa số do bệnh tật, tức hơn bảy phần trăm, con số tử vong cao hơn bất cứ tập thể quân hay dân sự nào ở Pháp trong cùng thời kỳ. Một số công binh đi làm cho các sở tư, thì bị ăn chặn tiền lương, chỉ được lãnh có 1 phần 6 số lương chủ trả...

            Trong tình trạng bi đát ấy, tiểu tổ BL của phong trào Đệ Tứ Quốc Tế hình thành, với sáu người, gồm những người đào ngũ. Sau khi nước Pháp được giải thoát khỏi sự đô hộ của Quốc Xã Đức, binh sĩ Việt Nam tại Pháp nhân dịp đứng lên đòi hỏi cải thiện đời sống. Họ lập nên các Ủy Ban Đại Diện, với sự yểm trợ của nhóm Đệ Tứ nói trên, và thành lập các tổ chức thanh niên thể thao, tương tế, tự vệ, v.v... Bộ mặt các “căng trại” thay đổi, bọn cường quyền phải e dè, và đời sống binh sĩ Việt Nam trở nên tốt đẹp hơn. Nạn mù chữ cũng bị đẩy lùi, một thành công lớn, cùng với việc dạy nghề cho binh sĩ. Phong trào tự quản thành công của Công Binh đưa đến ý thức cần đi đến sự thành lập một Ủy Ban Đại Diện chung cho toàn thể Việt kiều tại Pháp, với một mục tiêu xa hơn là tranh đấu cho nền độc lập của nước nhà. Công việc tiến hành khả quan với sự hình thành của một Ủy Ban Lâm Thời, gồm các nhân vật Đệ Tứ và Quốc Gia, trong khi phe CS hậu thân của Đệ Tam Quốc tế kịch liệt tẩy chay việc này. Đến tháng chạp năm 1944 thì Tổng Ủy Ban Đại Diện Việt Kiều ra đời sau một Đại Hội ở Avignon. Hoạt động của Tổng Ủy Ban trước dư luận bản xứ là những đòn nặng đánh vào chính sách thực dân của Pháp. Chính quyền bản xứ ra lệnh giải tán Tổng Ủy Ban Đại Diện Việt Kiều vào tháng 10 năm 1945, và bắt giam một số đại biểu. Hai tháng sau, một Đại Hội được triệu tập tại Mazargues, và một tổ chức khác ra đời, lấy tên là Việt Kiều Liên Minh.

            Năm 1946, khi Hồ Chí Minh trở sang Pháp, thì Việt Kiều đã có tổ chức, nhưng không phải được tổ chức dưới ngọn cờ của Đảng CS. Người Đệ Tứ lại có mặt trong hầu hết các tổ chức Việt Kiều, những người Đệ Tứ mà ông Hồ và các đồng chí Đệ Tam của ông đã gần như giết sạch trong quốc nội. Vì thế đảng CS không ngớt tấn công các tổ chức Việt Kiều đã được thành lập,  bằng cách gây chia rẽ giữa người Quốc Gia và Đệ Tứ,  rồi giữa Công Binh với nhau ... Với Trần Ngọc Danh, người đại diện của chính phủ Hồ Chí Minh tại Pháp, những màn vu khống bôi bẩn đại diện Công Binh được giàn dựng công phu. Ông Danh liên kết với thành phần du đãng lưu manh không còn hoành hành được ở các căng trại nhờ chính sách tự quản của các Ủy Ban Đại Diện, để trở lại khuấy nhiễu đời sống của Công Binh, hành hung đại biểu, phá phách rồi gọi cảnh sát đến điều tra, khám xét. Đảng CS Pháp lúc ấy cũng nằm trong chính phủ, nên có sự đồng lõa bên phía công quyền, cảnh sát. Trong một cuộc ẩu đả do phe CS gây ra ở trại Mazargues, năm người thiệt mạng, Công Binh phụ trách Ủy Ban Tự vệ bị cảnh sát bắn chết, hàng chục người bị thương nặng, nhiều người tàn phế. Chưa hết, một số Công Binh còn bị truy tố ra tòa và phải lãnh án mặc dù không có bằng chứng gì để buộc tội họ. Mặc dù tốn nhiều công sức với những phương tiện bá đạo và phi nhân, phe CS đệ tam cũng không kéo được những người Công Binh đã quen với sinh hoạt dân chủ về với chủ trương độc tài của họ (trong số 60 đại đội, gọi là cơ, compagnie, thì chỉ có một cơ rưỡi theo CS đệ tam).

            Khi đa số Công Binh về nước, khoảng 1000 người ở lại Pháp, và tổ chức đại diện Công Binh biến thành Hiệp Đoàn Thợ Việt Nam, với báo “Tiếng Thợ” , tiếp tục truyền thống cũ. Câu chuyện thường bị lãng quên của họ là câu chuyện của những đồng bào xa quê hương xứ sở, đã từ một tình trạng bị đối xử như súc vật, như nô lệ, không những vươn lên tranh thủ được quyền sống như những con người, mà còn vận dụng ý thức chính trị của mình để tranh đấu cho nền độc lập của nước nhà. Họ là những con người đã giác ngộ phẩm giá của mình và hành động để phẩm giá ấy cũng như phẩm giá của mọi con người khác được tôn trọng. Ngày nay, những vị còn lại trong số họ đã lớn tuổi, nhưng vẫn còn nỗ lực hoạt động dưới sự điều khiển của Hoàng Khoa Khôi, hưu trí tại Paris.

            Rồi đến khi cuộc chiến Pháp Việt kết thúc, trên nước Pháp lại có thêm một dấu tích khác của người mình, còn lại đến ngày nay. Đó là làng Việt Nam ở Sainte Livrade, gần Agen, miền Trung Nam nước Pháp. Làng này được dựng nên từ năm 1954, cho những người Việt được Pháp đem đi sau cuộc thảm bại ở Điện Biên Phủ. Đầu tiên, đây chỉ là một trại tỵ nạn, cất theo kiểu trại lính, với vật liệu nhẹ, gỗ và mái nhôm. Sau trại trở thành một ngôi làng với đầy đủ các đặc điểm của làng Việt Nam, như đình, chùa v.v... Người sống ở đây hiện vẫn còn bảo tồn gần như hoàn toàn các phong tục truyền thống Việt Nam, kể cả cúng giỗ, và ... lên đồng ! Họ trồng trọt hoa màu Việt Nam và hiện trở thành nơi sản xuất rau tươi Việt Nam quan trọng nhất cho các chợ Á Châu tại Paris và các nơi đông người da vàng. Họ “đồng hóa” cả một số dân bản xứ quanh đó, khiến những người này cũng gieo trồng hoa màu Việt Nam, ăn cơm Việt Nam và quen thuộc với tập quán Việt Nam.

            Trong suốt cuộc chiến tranh Nam Bắc Việt Nam, thì phải kể đến làn sóng du học sinh đến Pháp với tỷ số người ở lại khá cao, tạo thành một cộng đồng Việt Nam tại Pháp, với trình độ tổ chức đáng kể. Chiến tranh Việt Nam cũng là đầu mối của sự phân chia cộng đồng này thành hai phe thân chính quyền Sài Gòn hay Hà Nội. Phe chống chính quyền Sài Gòn được nuôi dưỡng bởi không khí tả khuynh, chống Mỹ, của giới trí thức Pháp, nên phải nói là phát triển mạnh. Phe chống CS ít được sự hậu thuẫn của dư luận bản xứ Pháp, nhưng một số tổ chức, như Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam Paris, nhờ có những nhân sự lỗi lạc, nên có được mức độ sinh hoạt rất khả quan. Tổng Hội trở thành đầu tàu cho hoạt động chống chính quyền Hà Nội của sinh viên Việt Nam khắp nước Pháp. Nhiều truyền thống phát sinh từ giai đoạn này vẫn còn tồn tại đến ngày nay, như Đại Hội Thể Thao Âu Châu chẳng hạn.

            Phải đợi đến sau năm 1975, làn sóng người tỵ nạn CS tràn lan đến Pháp mới đem lại cho phe chống chính quyền Hà Nội một chính nghĩa hiển nhiên, và thật nhiều nhân sự, với những cơ cấu và tổ chức cộng đồng mới. Các tổ chức thoát thai từ phong trào sinh viên dần dần nhường chỗ cho những hội đoàn tỵ nạn (như Hội Thanh Niên Tỵ Nạn ở vùng Paris), hay các hội đoàn liên hệ chặt chẽ với những đảng phái hoặc Mặt Trận chống CS (như Hội Ái Hữu Vùng Nam Paris). Tại các địa phương, hội đoàn sinh viên cũng nhường chỗ cho những hội đoàn với đa số người tỵ nạn, tuy một số sinh viên cũ vẫn duy trì hoạt động đắc lực.

            Rồi thời “đổi mới” của CS Việt Nam khiến tư thế đối nghịch “Quốc - Cộng” trong tập thể người Việt có sự thay đổi. Người ta phải thích nghi với những thái độ mới, như về thăm Việt Nam, gửi tiền về giúp gia đình (biết rằng đồng thời cũng giúp chế độ CS Việt Nam), thậm chí đầu tư làm ăn buôn bán với Việt Nam. Vì thế, một số cấu trúc, tổ chức, dần dần thay đổi, hay biến mất, và một số tổ chức mới ra đời, với những chủ trương như “hòa hợp hòa giải”, “chống đối chừng mực” (trường hợp của những người thân Hà Nội lúc trước nay bỏ ra chống đối), v.v...

            Cần nói là tập thể người tỵ nạn CS Việt Nam tại Pháp cũng bao gồm nhiều đồng hương đến từ Ai Lao, với những sắc thái sinh hoạt đặc thù. Thường họ không phải trốn tàu như các “boat people”, mà chỉ vượt sông Mekong, nên mang theo được nhiều của cải hơn, lại đến Pháp tương đối sớm, lúc những trợ cấp còn dồi dào, nên nói chung, buổi ban đầu sinh sống của họ trên đất Pháp dễ chịu hơn. Họ cũng hay sống gần nhau theo sự quen biết từ bên Lào, và thường vẫn tham gia các sinh hoạt của người Lào tại Pháp (nhiều người vừa mang tên Lào, vừa mang tên Việt). Tính tình họ cũng dễ dãi, ham vui và khả ái như người Lào, nên các hội đoàn Việt Nam có nhiều thành viên là người Việt đến từ Ai Lao thường xem sự đóng góp của họ như một ưu điểm lớn.

            Đời sống của hơn 200 ngàn người Việt tại Pháp thường không khác ở các nước Âu Mỹ là bao. Thời “sinh viên”, các anh em ở lại lập nghiệp nơi xứ này thường làm những nghề nghiệp trí thức, bác sĩ, kỹ sư, như truyền thống người mình thường ham chuộng. Có lẽ vì mặc cảm ngoại quốc, các sinh viên tốt nghiệp thường thích đi làm công cho các hãng xưởng hay cho chính phủ hơn là nhảy ra làm nghề tự do. Khi làn sóng tỵ nạn CS lan đến, thì bắt đầu có nhiều đồng hương làm nghề lao động, thương mại (phần nhiều là tiệm ăn), cũng như xuất hiện thêm nhiều nhi đồng Việt Nam trong các trường Trung, Tiểu học. Phải nói là tại Pháp cơ hội tiến thân không được dồi dào như ở Hoa Kỳ chẳng hạn, nên người tỵ nạn đến đây khó mà tìm lại được công việc và địa vị xã hội của mình ở Việt Nam trước đó. Ngay cả sinh viên Việt Nam tốt nghiệp tại Pháp cũng khó mà “leo” được như khả năng của mình cho phép, nếu đem so sánh với các bạn có cùng trình độ ở Mỹ. Tuy vậy, cũng có những người thành đạt vẻ vang ở Pháp, như chúng ta có thể đọc được trong các tuyển tập “Vẻ Vang Dân Việt” do nhà báo Trọng Minh chủ trương (nay đã ra đến Tập Ba).

            Tôi xin kể với bạn trường hợp một gia đình tỵ nạn đến Pháp, vào ở Trung Tâm tỵ nạn Rennes. Các em nhỏ được vị Giám Đốc cho đi học tiếng Pháp rồi bắt chuyển sang học nghề. Thân phụ các em phản đối, đòi các con mình, nhất là người con trai lớn, phải được học trường kỹ sư, vì em rất giỏi toán. Giám Đốc Trung Tâm nhất định không chịu, khiến bác tỵ nạn này phải rời Trung Tâm sớm hơn thời hạn, mất một số quyền lợi (dường nhu lúc ấy người tỵ nạn được “nuôi” trong Trung Tâm khoảng một năm hay 18 tháng chi đó). Ông tự lực tìm trường cho người con lớn, một việc vô cùng phức tạp ở cái nước Đại Phú Lang Sa này, và ghi danh cho em vào INSA Lyon, một trường kỹ sư hạng trung bình. Em học quá giỏi khiến các giáo sư đề nghị luyện cho em thi vào Centrale, một trường danh tiếng, ngang hàng với Polytechnique. Em đỗ đầu, và nay đã tốt nghiệp ra đi làm, với một địa vị xứng đáng. Các em của em đều học khá, một cô làm bác sĩ chuyên khoa, em khác dường như học dược...

            Tôi cũng được biết một em Việt Nam khi còn ở trại tỵ nạn viết thư cho người anh cũng là thuyền nhân đã sang Pháp trước đó vài năm, để xin ghi tên cho em học nghề hớt tóc. Người anh trả lời bảo em mình nên quay trở về Việt Nam nếu đến Pháp chỉ để ước mơ làm thợ hớt tóc. Sau cậu em mò sang, bị “quản thúc” gần một năm trong phòng để học tiếng Pháp, trước khi vào nội trú một trường luyện thi. Em cũng đậu vào Centrale, đã ra trường, và được mời cộng tác ở trình độ cao trong một xí nghiệp Pháp. Các gia đình tỵ nạn ở Rennes, gần nơi tôi hiện sinh sống, phần đông đều chịu sống eo hẹp, hy sinh tất cả phương tiện để cho con cái học lên cao, đoạt những bằng cấp quý báu, mặc dù điều kiện học hành ở Pháp thua kém những nước như Hoa Kỳ rất nhiều.

            Xin kết thúc bài viết này với những câu chuyện đầy khích lệ và đáng kính phục này, trong niềm kỳ vọng nơi thế hệ người Việt hiện đang nối gót chúng ta trên cuộc tranh sống tại nước Pháp này. Mong thế hệ ấy, cũng như những thế hệ kế theo, sẽ càng ngày càng đạt đến những thành quả vẻ vang hơn, và nhất là mãi giữ được tinh thần Việt Nam, luôn sẵn sàng giúp đỡ đồng hương và quê quán của mình.

Nguyễn Hoài Vân

1 tháng 3 năm 1998

http://nguyen.hoai.van.pagesperso-orange.fr/Nguoi-Viet-tai-Phap.htm