Phó An My và bốn giá đồng

Tối 22 tháng 8, Bóng – tác phẩm đối thoại giữa piano và chầu văn đã diễn ra tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Sáu mươi phút với bốn giá đồng không phải là dài, sự kết hợp âm nhạc phương Tây với các nhạc cụ và âm nhạc dân gian cũng không phải là mới, nhưng tài năng của Phó An My và các bạn diễn cộng với một sự tính toán chặt chẽ trong sáng tác, bố cục sân khấu, ánh sáng và không gian đã biến buổi biểu diễn thành một đêm nhạc đáng nhớ không chỉ với những người trong giới mà còn cả những khán giả mê hát văn (trong số đó có nhiều người) chưa bao giờ bước chân vào ‘‘thánh đường’’ âm nhạc.

Khi giọng hát vang lên trong màn đêm tuyệt đối mở đầu cho đêm nhạc, khán giả không khỏi hồi hộp. Với những người đầu tiên xem chương trình, sự kết hợp giữa một nhạc cụ phương Tây với những di sản dân gian của Việt Nam không khỏi gây sự tò mò. Những người đã tham dự buổi biểu diễn trước đó tại Rạp Công Nhân thì tò mò không biết My và bạn diễn còn có thể làm gì để gây ngạc nhiên cho khán giả. Thế rồi tiếng đàn vang lên và Phó An My cùng các cung văn và nhạc công đã cuốn người xem vào một thế giới đầy mê hoặc với những cung bậc cảm xúc đa chiều để rồi phải thốt lên: hết rồi ư!?

Từ sự uy nghiêm và huyền bí khi thỉnh mẫu, đến vẻ đẹp hào hoa của Ông Hoàng bảy và mười hai cô tiên, cho đến vẻ đẹp mê hồn của cô Bơ và những xúc cảm vừa huyền bí đến lạnh người vừa tưng bừng, tinh nghịch của Cậu bé đồi ngang (Phó An My đã từng có cảm giác một cậu bé người âm chạy vụt qua sân khấu khi cô tập luyện phần này), tất cả được truyền tới người xem một cách hoàn hảo qua ‘‘cô đồng’’ Phó An My. Phần mở đầu mang đậm chất huyền bí với những nốt nhạc mạnh mẽ và không dễ nghe với phong cách cận đại. Sang đến phần Ông Hoàng bảy thì phong cách âm nhạc đã trở về lãng mạn khiến người nghe chìm trong khoan khoái, đặc biệt là phần đối thoại đầy mầu sắc giữa cây piano và những đoạn hát miêu tả mười hai cô tiên theo ông Hoàng bảy. Đây chính là phần đối thoại rõ nét nhất khi hình ảnh của mỗi nhân vật sau khi đã xuất hiện trong lời hát chầu văn được hoàn nguyên qua những nốt nhạc piano khi khoan thai, lúc dìu dặt. Phần thứ ba đặc tả vẻ đẹp đến mê hồn của cô Bơ là một đỉnh cao của âm nhạc lãng mạn. Từ vẻ đẹp của cô Bơ con vua Thủy tề đến những mái chèo khoan nhặt của cô thậm chí cả đến những giọt nước tóe lên từ mái chèo của cô đều được lột tả qua dòng suối nhạc ngọt ngào của cây piano. Phó An My và các cộng sự đã thành công trong một show diễn hoàn hảo cả về kỹ thuật và thiết kế sân khấu.

Không gian sân khấu được xử lý khéo với ba cung văn được đưa lên giá cao hơn 3 mét ngự trị và bao quát toàn sân khấu, rất gần với cách bài trí phủ điện của đạo mẫu, sàn diễn được phủ thảm đen khiến không gian càng trở nên thăm thẳm, cuối cùng, chỉ vần một vài luồng sáng rọi từ trên xuống ngay lập tức đã tạo nên một cảm giác tâm linh rõ rệt. Trong toàn bộ phần mở đầu Nghinh Thần và giá một Mẫu cửu trùng thiên, một cảm giác âng ấng mơ hồ xâm chiếm toàn bộ khán phòng.  Bốn chiếc áo hầu đồng được hạ từ trên xuống trong màn khói đã trở thành một món quà cho cánh báo ảnh đang ẩn hiện khắp khán phòng. Ánh sáng trong đêm diễn được nhiếp ảnh gia Xuân Trường – người đảm nhận phần thiết kế sân khấu và đạo diễn ánh sáng - xử lý một cách hợp lý. Trong chương trình: cung văn, dàn nhạc, phó An My đều không di chuyển, chọn ánh sáng sáng vàng mộc mạc sẽ giúp người xem tập trung hơn vào âm nhạc mà không bị phân tán sự chú ý – anh chia sẻ. Thực tế đêm diễn đã chứng minh đây là một quyết định đúng đắn. Với cách bố trí 3 cung văn uy nghiêm ở trên cao, ánh sáng tối giản tạo điều kiện tối đa cho âm nhạc được truyền tới người xem một cách tốt nhất. Bằng việc xen kẽ phong cách âm nhạc cận đại và lãng mạn, Đặng Tuệ Nguyên đã cho thấy anh thực sự quan tâm đến công chúng khi mở rộng cửa cho khán giả bước vào thế giới âm nhạc của mình. Không khăng khăng giữ lấy phong cách cận đại vốn là ‘‘món ăn khó nuốt’’ với đa phần người nghe, anh đã cho vào những trường đoạn mang đậm chất trữ tình, lãng mạn ‘‘dễ vào’’ hơn với người nghe. Đây là một quyết định không dễ dàng nhưng đúng đắn bởi một tác phẩm dù hay đến mấy mà khiến người nghe cảm thấy ‘‘cái này không dành cho mình’’ thì sự thành công khó thể trọn vẹn. Các nhà tổ chức chương trình cũng sản xuất một DVD tư liệu giúp khán giả có thể hiểu hơn về tác phẩm và quá trình dựng show cũng như thưởng thức toàn bộ show diễn đã được tổ chức tại Rạp Công nhân trước đó.

Cuộc đối thoại đã có thể hoàn hảo hơn khi trong phần đối thoại ở giá Ông Hoàng Bảy, ánh sáng được di chuyển luân phiên giữa cây piano và cung văn chứ không chỉ tập trung vào piano. Âm lượng quá lớn ở đoạn kết đã phần nào làm mất đi sự hòa hợp cần thiết khi tất cả các nhạc cụ và người hát cùng lên tiếng.

Sau những thể nghiệm kết hợp piano với Tuồng, hò Huế, hát Cọi (dân tộc Tày), với Bóng - Phó An My và Đặng Tuệ Nguyên đã khẳng định xu hướng kết hợp tinh hoa văn hóa dân tộc với ngôn ngữ âm nhạc hiện đại. Rất cần những buổi biểu diễn như vậy để đưa ra một diện mạo mới, hiện đại, cập nhật mà vẫn rất Việt Nam tại các trung tâm văn hóa Việt Nam trên thế giới – một phần việc rất cần sự quan tâm của Bộ Văn hóa cũng như Bộ Ngoại giao. Dưới góc độ này, giá trị của Bóng còn vượt xa hơn thành công của một chương trình của một nghệ sỹ độc lập tự làm show cho mình.

Hà Nội 24/8/2011

Nguyễn Đình Thành

 

(TT&VH Cuối tuần) - (LTS) Sau khi đăng tải những thông tin tranh luận xung quanh vở opera Carmen của Nhà hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam, do nữ đạo diễn người Thụy Điển Helena Rohr dàn dựng, TT&VH tiếp tục nhận được bài viết của dịch giả Nguyễn Đình Thành đánh giá về vở diễn này. Xin giới thiệu bài viết này tới độc giả.


1. Vừa qua, tại Nhà hát lớn Hà Nội, những người yêu opera đã được thưởng thức hai đêm diễn đầy nỗ lực của dàn diễn viên, nhạc công của Nhà hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam: vở Carmen của nhà soạn nhạc Pháp thế kỷ 19, Georges Bizet. Người yêu nhạc cổ điển đã được yêu một Carmen hoàn toàn mới lạ, được nhìn nàng sống và yêu dữ dội, chứng kiến hồi kết oan nghiệt khi nàng ngã xuống bởi bàn tay của chính người yêu mình. Có thể nói bước chân Carmen đi đến đâu là ở đó dậy sóng, và đó thường là những con sóng trái chiều. Carmen ở Hà Nội lại một lần nữa khẳng định điều ấy.


Những người trung thành với opera cổ điển hẳn phải nhau mày nhíu mắt khi nhìn thấy một Carmen không giống như trong vở opera kinh điển của tác giả Pháp. Xứ Andalousie nóng bỏng và quyến rũ với điệu nhảy flamenco, những con người lam lũ được thay bằng khung cảnh của Việt Nam ngày nay. Những bộ quân phục châu Âu được thay bằng những chiếc áo bảo vệ. Khán giả không khỏi bật cười thích thú khi chàng Toreador Escamillo bấm Iphone để ghi lại tên của Carmen; chăm chú dõi theo diễn xuất và lắng nghe tiếng hát của Micaela chân chất, dễ thương; mỗi lần một địa danh của Việt Nam vang lên là trong khán phòng lại rộ lên những tiếng cười sảng khoái. Các nhà tổ chức cũng đã chu đáo làm một màn hình phụ đề tiếng Anh, tiếng Việt để khán giả tiện theo dõi và hiểu diễn biến câu chuyện.






Nàng “Carmen Hà Nội”



2. Vở diễn cuốn hút trước hết có lẽ chính vì yếu tố ‘‘thật’’ trong đó. Nghe những lời thoại rành rọt vang lên trong khán phòng mà không cần bất kỳ phương tiện khuyếch đại âm thanh của nhà hát mới thấy thích thú và tiếc cho sân khấu Việt Nam. Đã lâu lắm rồi, những lời thoại mộc sinh động và truyền cảm đến vậy, mới vang lên ở Nhà hát Lớn. Cứ như thể khán giả đang được đưa về buổi đầu của nền kịch nói những năm 1920, 1930.


Sân khấu cũng được thiết kế theo phong cách tối giản mà vẫn gợi lên được hiệu ứng cần thiết. Sân khấu luôn là vậy, có cần gì hơn vài cặp chân trần, hé lộ tý chút dưới tấm màn để gợi nên vẻ quyến rũ của những cô gái di-gan ngang tàng và nóng bỏng. Có cần gì hơn vài cặp đèn nê-ông treo song song và một chút khói để hoàn nguyên cái không khí hối hả và hừng hực của một xưởng thuốc lá. Rồi chỉ vài mét bạt nilông xây dựng, vài cái ghế nhựa, đôi ba chai nước, một cái mâm và đôi đũa... đã đủ để nữ đạo diễn người Thụy Điển Helena Rohr ‘‘bứng’’ trọn câu chuyện của Mérimée về một Việt Nam ngày nay.


Cách xử lý không gian linh hoạt, phá vỡ những quy luật nghiêm khắc của một vở opera cổ điển như cho các nhân vật chính xuất hiện và cất lời hát giữa khán phòng rồi mới lên sân khấu, sử dụng 2 phần ban công phụ như những chiếc cửa sổ ở trại lính để các anh lính trèo lên trèo xuống hay những đoạn di chuyển của các nhân vật chính trên những chiếc bàn... là một giải pháp khéo léo. Số lượng đông đảo hơn 100 diễn viên tham gia biểu diễn, điều thực sự hiếm trên sân khấu Nhà hát Lớn, đã tạo nên một hiệu ứng hoành tráng cho người xem. Ngoài ra, trình độ biểu diễn của Dàn nhạc giao hưởng cũng đã khác xa với những năm trước đây sau một thời gian dài được làm việc cùng các nhạc trưởng người Anh, Pháp, Nhật. Sự có mặt của dàn hợp xướng quốc tế tại Hà Nội đã cải thiện đáng kể chất lượng của các bài hát trong hoàn cảnh hầu hết các diễn viên, ca sỹ đều không biết tiếng Pháp.


3. Công bằng mà nói giọng hát và ngoại hình của vai chính chưa thực sự tương xứng với một vai diễn lớn và phức tạp như Carmen; sự chính xác trong phát âm và lời thoại của các nhân vật quần chúng vẫn chưa ở được mức cần có nhưng điều ấy cũng không ngăn cản Carmen Hà Nội chiếm được cảm tình của khán giả.


Hài lòng là cảm giác dễ cảm nhận ở phần lớn người xem trong phòng, đặc biệt là người nước ngoài (đa phần là người Pháp). Họ không đến nghe người Việt hát tiếng Pháp như thế nào mà đến xem “Carmen Hà Nội” như thế nào; để xem đạo diễn Helena Rohr dàn dựng như thế nào và quan trọng nhất là để thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật.


Với chính sách đãi ngộ như hiện nay cộng với việc số lần được diễn trọn vẹn một vai trong một vở opera hoàn chỉnh chỉ đếm không quá đầu ngón tay trong cả đời nghệ sĩ nhạc kịch, chất lượng của một vở diễn như Carmen Hà Nội là hoàn toàn chấp nhận được. Có lẽ, do ý thức được điều này, nên ê kíp đạo diễn cũng đã chủ động đặt tên cho vở là Carmen Hà Nội mà không phải là Carmen. Vài năm trước đây, đạo diễn Pháp Sarkis Tcheumlekdjian cũng đã chọn cách làm tương tự với vở kịch nổi tiếng Tartuffe khi đưa vở kịch thế kỷ 17 của Pháp vào bối cảnh Đông Dương những năm đầu thế kỷ 20 và ông đã thành công.


Dẫu còn nhiều luồng ý kiến nhưng thiết nghĩ cái quý nhất của một vở diễn là đem lại những phút giây hạnh phúc cho người xem, 2 đêm diễn vừa rồi, Carmen Hà Nội đã làm được điều ấy nên xin mượn tứ một truyện ngắn của Y Ban mà nói: Tôi yêu nàng đấy Carmen ơi!


Nguyễn Đình Thành (dịch giả)
http://www.baomoi.com/Home/AmNhac/thethaovanhoa.vn/Toi-yeu-nang-day-Carmen/6465213.epi
 
 
Bấy lâu nay,  khi nhắc đến Đạo Lão người ta thường nghĩ ngay đến lời dạy của Lão Tử làm chuyện ‘’vô vi’’, không màng danh lợi, không đua tranh với đời, coi thường tiền bạc...và cho rằng Đạo Lão không hợp, thậm chí còn đối nghịch với hoạt động của doanh nhân. Sự thực thì nếu đọc theo một góc độ khác, Đạo Lão thực ra rất có ích với doanh nhân, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng như bây giờ.

Học giả Lâm Ngữ Đường trong cuốn Sống đẹp (Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1993, nxb Văn Hóa) đã viết : nhờ Lão Tử mà dân tộc Trung Hoa mới tồn tại được trong ba bốn ngàn năm vật lộn với đời sống mà không có nhiều người bị bệnh điên, bệnh thần kinh, suy nhược, bệnh đứt gân máu như người Phương Tây*. Điều đó đủ cho thấy tầm quan trọng của Đạo Lão trong xã hội Trung Hoa vốn có rất nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Tư tưởng của Lão Tử thể hiện chủ yếu trong tác phẩm Đạo Đức Kinh ra đời khoảng 600 năm trước Công nguyên. Trong đó, ông đề cập đến các vấn đề về vũ trụ, quy luật biến đổi của vạn vật và đời người. Hãy thử áp dụng quan điểm của đạo Lão vào công việc kinh doanh và quản lý hiện nay.

Về quản trị. Nếu coi việc quản trị một tập đoàn kinh tế một công ty như quản lý một quốc gia (vào thời của Lão Tử) phương châm sẽ là: Trị nước lớn như nấu nướng cá nhỏ. Nấu cá nhỏ mà lật lên lật xuống, động tới nói nhiều quá thì nó sẽ nát, trị nước lớn (công ty lớn) mà can thiệp vào việc của dân nhiều quá, dân sẽ trá ngụy, chống đối. Như vậy, người quản lý lớn chỉ nên đưa ra các đường lối, nếu can thiệp quá nhiều vào công việc điều hành của từng bộ phận thì sẽ hỏng việc. Ngoài ra, người quản lý giỏi (trị dân theo cách nói của Lão Tử) là phải : Bậc trị dân giỏi nhất thì dân không biết là có vua, thấp hơn một bực thì dân yêu quý và khen, thấp hơn nữa thì dân sợ, thấp nhất thì bị dân khinh lờn...Vua thành công, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo : ‘’tự nhiên mà mình được vậy’’. Đó mới thực là tuyệt đỉnh của vô vi. Người quản lý giỏi thì nhân viên làm được việc mà không cần có sự chỉ đạo từ trên xuống. Giám đốc nhân sự của thương hiệu khách sạn sang trọng số một thế giới Four Season cũng nói : mỗi nhân viên của chúng tôi đều nỗ lực hết sức để làm hài lòng khách mà không đợi có sự chỉ đạo của các giám sát viên, quản lý. Đó là ý thức tự giác.

Về quản lý con người. Một nhà quản lý tốt phải tự tư (vô tư) không có thành kiến, coi ai cũng như ai, không thiên vị : Thánh nhân không có thành kiến, lấy lòng thiên hạ làm lòng mình. Thánh nhân tốt với người tốt, tốt cả với người không tốt, nhờ vậy mà mọi người đều hóa tốt. Ông khuyên người lãnh đạo phải Sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền. Với ví dụ là  Sông biển sở dĩ làm vua trăm khe lạch (nghĩa là nơi quy tụ của mọi khe lạch) là vì khéo ở dưới thấp nên làm vua trăm khe lạch. Vì vậy thánh nhân (tức vua chúa) muốn ở trên dân thì lời nói phải khiêm hạ, muốn ở trước dân thì phải lùi lại sau). Lãnh đạo con người thì nên cứ thuận tự nhiên, đừng có tư ý, mưu mô thì dùng được mọi người , không phải bỏ ai, mình dạy cho người, người giúp đỡ lại mình mà đức mình càng thêm tỏ.

Về kinh doanh. ở chương 29 ông nói : ‘’Người biết thì bỏ những gì thái quá và không cho tình trạng nào dù tốt tới mấy, phát triển tới cực điểm vì theo quy luật tuần hoàn trong vũ trụ, hễ phát tới cực điểm thì sẽ quay trở lại (phản phục), sẽ suy’’. ở chương 42 ông nói ‘’Hễ lên gần tới cực điểm rồi thì ngưng lại nếu trái lại không ngưng mà cứ cho tăng hoài thì mau suy, mau kiệt, như vậy là thêm lên mà lại hóa ra bớt đi’’. Đây là một quan điểm tài tình vì nó khẳng định việc kinh doanh có lúc lên, lúc xuống. Khi túi của Prada ở Nhật bán quá chạy, người ta ồ ạt nhập khẩu loại túi này vào đây bằng mọi giá kết quả là nhu cầu chững lại. Một ví dụ đơn giản khác nữa là việc mức cầu bùng nổ về rau quả sau đợt lũ ở Hà Nội hoặc việc được mùa lại lỗ nặng trong nông nghiệp nước ta. Khi kinh doanh thì không nên đẩy mọi việc đi quá xa, vượt quá giới hạn (thái) bởi sau đó sẽ là sự suy giảm, đi xuống. Và sự đi xuống cũng là dấu hiệu, mầm mống của sự đi lên. Áp dụng vào tình hình kinh tế thế giới hiện nay, người kinh doanh có thể tin vào việc sự thịnh vượng sẽ trở lại.

Về tiền bạc, danh lợi. Lão Tử khuyến nghị người ta không để bị nó chi phối, nó chỉ là phương tiện không phải là mục đích. Biết dừng lại đúng lúc là người túc trí: ‘’Biết thế nào là đủ thì không nhục, biết thế nào nên ngừng thì không nguy...Biết thế nào là đủ thì sẽ thấy đủ, đợi cho có đủ thì bao giờ mới đủ‘’. Nếu cứ mải mê chạy theo lợi nhuận thì chẳng bao giờ thấy đủ, chẳng bao giờ thỏa mãn. Ông viết : ‘’Vàng ngọc đầy nhà, làm sao giữ nổi ; giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa. Công thành rồi thì nên lui về đó là đạo trời’’. Hay ‘’Danh tiếng với sinh mệnh cái nào quý ? Sinh mệnh với của cải cái nào quan trọng ? Được danh lợi mà mất sinh mệnh cái nào hại ? Cho nên ham danh quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất nhiều’’. Kẻ biết thế nào là đủ là người giàu.

Về lối sống.
Đối với mình thì quả dục (hạn chế ham muốn), không nóng nảy, hiếu thắng, đối với người thì khiêm nhu như vậy thì lòng thanh thản, tâm thần vui và mạnh mà tâm thần ảnh hưởng nhiều đến thể chất. Đặc biệt, trong hoàn cảnh hiện nay khi mức sống của tầng lớp doanh nhân nói chung tương đối cao, việc giữ gìn sức khỏe tinh thần và thể chất trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Không phải ngẫu nhiên mà Liên hợp quốc đã dành cả một chương trình truyền thông lớn trên toàn thế giới vào năm 2005 dành riêng cho sức khỏe tinh thần. Song song với việc bỏ ra cả ngàn đô la mua thẻ tập tại các trung tâm thể dục hàng đầu, có lẽ người ta cũng nên dành sự chú ý cho chính lối sinh hoạt của mình. Lão Tử khuyên muốn sống lâu đừng nên phụng dưỡng mình quá hậu tức đừng hưởng thụ thái quá. Những kẻ có thể sống lâu được mà chết sớm là vì họ tự phụng dưỡng mình quá hậu. Đây chính là phép dưỡng sinh của Lão Tử.

Về sự tiến thân trong sự nghiệp và cư xử với đồng nghiệp. Ông khuyên Làm người phải giữ ba vật báu : Lòng tự ái, tính kiệm ước và nhường người. Kẻ biêt người là người khôn, kẻ tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kẻ kiên cường. Ông nói:  Chỉ vì không tranh nên không ai tranh giành với mình được... Đạo trời không tranh mà khéo thắng. Người thiện vào bậc cao thì như nước. Nước khéo làm lợi cho vạn vật mà không tranh với vật nào, ở chỗ mọi người ghét (chố thấp) cho nên gần với đạo. Với những người thành công chưa đến thì có thể tự nhủ với lời dạy của ông: Đại khí vãn thành người có tài lớn thường thành công muộn.

Về môi trường. Lão Tử chủ trương vô vi. Vô vi không phải là không làm gì cả mà là thuận theo tự nhiên mà làm. Học giả Nguyễn Hiến Lê giảng : đạo vô tri vô giác, cố nhiên là không can thiệp vào cuộc sống vạn vật rồi. Nhưng con người hữu tri, hữu giác lại hay can thiệp vào mà can thiệp vào thì thường rất tai hại...loài người hay can thiệp vào đời sống của nhau gây ra loạn lạc chiến tranh. Chính vì thế, trong kế hoạch kinh doanh của mình, các doanh nghiệp bao giờ cũng phải nghĩ đến bảo vệ môi trường và thiên nhiên.

Như vậy hiểu và làm theo Lão Tử tức là tôn trọng thiên nhiên, dùng lối cư xử mềm mỏng, chân thực, lùi ra sau để trị người, không mù quáng chạy theo tiền bạc danh vọng, phải biết dừng lại đúng lúc, không để cho cái gì phát triển thái quá, tình hình xấu là tiền đề cho giai đoạn phát triển thịnh vượng sau này, lúc kinh doanh cực thịnh thì phải nghĩ đến lúc khó khăn sau này, kinh doanh phải tôn trọng thiên nhiên và môi trường. Những lời nói cách đây hơn hai nghìn năm tưởng chừng xa vời mà vẫn còn rất chí lý.

* Các trích dẫn trong bài này lấy từ quyển Lão Tử, Đạo Đức Kinh, của học giả Nguyễn Hiến Lê, nxb Văn hóa Thông tin, năm 2006


Nguyễn Đình Thành



Học giả Lâm Ngữ Đường trong cuốn Sống đẹp (Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1993, nxb Văn Hóa) đã viết : nhờ Lão Tử mà dân tộc Trung Hoa mới tồn tại được trong ba bốn ngàn năm vật lộn với đời sống mà không có nhiều người bị bệnh điên, bệnh thần kinh, suy nhược, bệnh đứt gân máu như người Phương Tây*. Điều đó đủ cho thấy tầm quan trọng của Đạo Lão trong xã hội Trung Hoa vốn có rất nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Tư tưởng của Lão Tử thể hiện chủ yếu trong tác phẩm Đạo Đức Kinh ra đời khoảng 600 năm trước Công nguyên. Trong đó, ông đề cập đến các vấn đề về vũ trụ, quy luật biến đổi của vạn vật và đời người. Hãy thử áp dụng quan điểm của đạo Lão vào công việc kinh doanh và quản lý hiện nay.

Về quản trị. Nếu coi việc quản trị một tập đoàn kinh tế một công ty như quản lý một quốc gia (vào thời của Lão Tử) phương châm sẽ là: Trị nước lớn như nấu nướng cá nhỏ. Nấu cá nhỏ mà lật lên lật xuống, động tới nói nhiều quá thì nó sẽ nát, trị nước lớn (công ty lớn) mà can thiệp vào việc của dân nhiều quá, dân sẽ trá ngụy, chống đối. Như vậy, người quản lý lớn chỉ nên đưa ra các đường lối, nếu can thiệp quá nhiều vào công việc điều hành của từng bộ phận thì sẽ hỏng việc. Ngoài ra, người quản lý giỏi (trị dân theo cách nói của Lão Tử) là phải : Bậc trị dân giỏi nhất thì dân không biết là có vua, thấp hơn một bực thì dân yêu quý và khen, thấp hơn nữa thì dân sợ, thấp nhất thì bị dân khinh lờn...Vua thành công, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo : ‘’tự nhiên mà mình được vậy’’. Đó mới thực là tuyệt đỉnh của vô vi. Người quản lý giỏi thì nhân viên làm được việc mà không cần có sự chỉ đạo từ trên xuống. Giám đốc nhân sự của thương hiệu khách sạn sang trọng số một thế giới Four Season cũng nói : mỗi nhân viên của chúng tôi đều nỗ lực hết sức để làm hài lòng khách mà không đợi có sự chỉ đạo của các giám sát viên, quản lý. Đó là ý thức tự giác.

Về quản lý con người. Một nhà quản lý tốt phải tự tư (vô tư) không có thành kiến, coi ai cũng như ai, không thiên vị : Thánh nhân không có thành kiến, lấy lòng thiên hạ làm lòng mình. Thánh nhân tốt với người tốt, tốt cả với người không tốt, nhờ vậy mà mọi người đều hóa tốt. Ông khuyên người lãnh đạo phải Sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền. Với ví dụ là  Sông biển sở dĩ làm vua trăm khe lạch (nghĩa là nơi quy tụ của mọi khe lạch) là vì khéo ở dưới thấp nên làm vua trăm khe lạch. Vì vậy thánh nhân (tức vua chúa) muốn ở trên dân thì lời nói phải khiêm hạ, muốn ở trước dân thì phải lùi lại sau). Lãnh đạo con người thì nên cứ thuận tự nhiên, đừng có tư ý, mưu mô thì dùng được mọi người , không phải bỏ ai, mình dạy cho người, người giúp đỡ lại mình mà đức mình càng thêm tỏ.

Về kinh doanh. ở chương 29 ông nói : ‘’Người biết thì bỏ những gì thái quá và không cho tình trạng nào dù tốt tới mấy, phát triển tới cực điểm vì theo quy luật tuần hoàn trong vũ trụ, hễ phát tới cực điểm thì sẽ quay trở lại (phản phục), sẽ suy’’. ở chương 42 ông nói ‘’Hễ lên gần tới cực điểm rồi thì ngưng lại nếu trái lại không ngưng mà cứ cho tăng hoài thì mau suy, mau kiệt, như vậy là thêm lên mà lại hóa ra bớt đi’’. Đây là một quan điểm tài tình vì nó khẳng định việc kinh doanh có lúc lên, lúc xuống. Khi túi của Prada ở Nhật bán quá chạy, người ta ồ ạt nhập khẩu loại túi này vào đây bằng mọi giá kết quả là nhu cầu chững lại. Một ví dụ đơn giản khác nữa là việc mức cầu bùng nổ về rau quả sau đợt lũ ở Hà Nội hoặc việc được mùa lại lỗ nặng trong nông nghiệp nước ta. Khi kinh doanh thì không nên đẩy mọi việc đi quá xa, vượt quá giới hạn (thái) bởi sau đó sẽ là sự suy giảm, đi xuống. Và sự đi xuống cũng là dấu hiệu, mầm mống của sự đi lên. Áp dụng vào tình hình kinh tế thế giới hiện nay, người kinh doanh có thể tin vào việc sự thịnh vượng sẽ trở lại.

Về tiền bạc, danh lợi. Lão Tử khuyến nghị người ta không để bị nó chi phối, nó chỉ là phương tiện không phải là mục đích. Biết dừng lại đúng lúc là người túc trí: ‘’Biết thế nào là đủ thì không nhục, biết thế nào nên ngừng thì không nguy...Biết thế nào là đủ thì sẽ thấy đủ, đợi cho có đủ thì bao giờ mới đủ‘’. Nếu cứ mải mê chạy theo lợi nhuận thì chẳng bao giờ thấy đủ, chẳng bao giờ thỏa mãn. Ông viết : ‘’Vàng ngọc đầy nhà, làm sao giữ nổi ; giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa. Công thành rồi thì nên lui về đó là đạo trời’’. Hay ‘’Danh tiếng với sinh mệnh cái nào quý ? Sinh mệnh với của cải cái nào quan trọng ? Được danh lợi mà mất sinh mệnh cái nào hại ? Cho nên ham danh quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất nhiều’’. Kẻ biết thế nào là đủ là người giàu.

Về lối sống. Đối với mình thì quả dục (hạn chế ham muốn), không nóng nảy, hiếu thắng, đối với người thì khiêm nhu như vậy thì lòng thanh thản, tâm thần vui và mạnh mà tâm thần ảnh hưởng nhiều đến thể chất. Đặc biệt, trong hoàn cảnh hiện nay khi mức sống của tầng lớp doanh nhân nói chung tương đối cao, việc giữ gìn sức khỏe tinh thần và thể chất trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Không phải ngẫu nhiên mà Liên hợp quốc đã dành cả một chương trình truyền thông lớn trên toàn thế giới vào năm 2005 dành riêng cho sức khỏe tinh thần. Song song với việc bỏ ra cả ngàn đô la mua thẻ tập tại các trung tâm thể dục hàng đầu, có lẽ người ta cũng nên dành sự chú ý cho chính lối sinh hoạt của mình. Lão Tử khuyên muốn sống lâu đừng nên phụng dưỡng mình quá hậu tức đừng hưởng thụ thái quá. Những kẻ có thể sống lâu được mà chết sớm là vì họ tự phụng dưỡng mình quá hậu. Đây chính là phép dưỡng sinh của Lão Tử.

Về sự tiến thân trong sự nghiệp và cư xử với đồng nghiệp. Ông khuyên Làm người phải giữ ba vật báu : Lòng tự ái, tính kiệm ước và nhường người. Kẻ biêt người là người khôn, kẻ tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kẻ kiên cường. Ông nói:  Chỉ vì không tranh nên không ai tranh giành với mình được... Đạo trời không tranh mà khéo thắng. Người thiện vào bậc cao thì như nước. Nước khéo làm lợi cho vạn vật mà không tranh với vật nào, ở chỗ mọi người ghét (chố thấp) cho nên gần với đạo. Với những người thành công chưa đến thì có thể tự nhủ với lời dạy của ông: Đại khí vãn thành người có tài lớn thường thành công muộn.

Về môi trường. Lão Tử chủ trương vô vi. Vô vi không phải là không làm gì cả mà là thuận theo tự nhiên mà làm. Học giả Nguyễn Hiến Lê giảng : đạo vô tri vô giác, cố nhiên là không can thiệp vào cuộc sống vạn vật rồi. Nhưng con người hữu tri, hữu giác lại hay can thiệp vào mà can thiệp vào thì thường rất tai hại...loài người hay can thiệp vào đời sống của nhau gây ra loạn lạc chiến tranh. Chính vì thế, trong kế hoạch kinh doanh của mình, các doanh nghiệp bao giờ cũng phải nghĩ đến bảo vệ môi trường và thiên nhiên.

Như vậy hiểu và làm theo Lão Tử tức là tôn trọng thiên nhiên, dùng lối cư xử mềm mỏng, chân thực, lùi ra sau để trị người, không mù quáng chạy theo tiền bạc danh vọng, phải biết dừng lại đúng lúc, không để cho cái gì phát triển thái quá, tình hình xấu là tiền đề cho giai đoạn phát triển thịnh vượng sau này, lúc kinh doanh cực thịnh thì phải nghĩ đến lúc khó khăn sau này, kinh doanh phải tôn trọng thiên nhiên và môi trường. Những lời nói cách đây hơn hai nghìn năm tưởng chừng xa vời mà vẫn còn rất chí lý.

* Các trích dẫn trong bài này lấy từ quyển Lão Tử, Đạo Đức Kinh, của học giả Nguyễn Hiến Lê, nxb Văn hóa Thông tin, năm 2006

 
Bài