par Nguyên Hưng, mardi 28 février 2012, 06:51 ·

Một lần, tôi vào phòng vệ sinh trong một trung tâm thương mại ở Bangkok. Tôi nhìn trước cửa thấy hình đàn ông và một chữ “Man” (Nam) to tướng. Nhưng mới bước qua khỏi cánh cửa chính, tôi giật thót người khi thấy một phụ nữ khoảng 40-50 tuổi đang lom khom quét dọn trên sàn nhà. Nhìn chung quanh, bốn hay năm người đàn ông đứng quay lưng lại…tè. Người tè thì cứ tè; người quét dọn thì cứ quét dọn. Thật tự nhiên.

Cảnh ấy, về sau, tôi thấy đi thấy lại nhiều lần. Các nữ công nhân hết sức thoải mái bước vào phòng vệ sinh nam quét dọn, lau chùi. Ai tiểu tiện hay đại tiện cũng mặc, họ cứ cắm cúi làm việc của họ. Cả họ lẫn những người đàn ông chung quanh hình như cũng đều thấy đó là chuyện bình thường. Không ai ngượng ngùng hay khó chịu cả.

Tôi nhớ đến các phòng vệ sinh ở Hàn Quốc. Nói chung, so với phần lớn các nước Á châu khác, phòng vệ sinh ở Hàn Quốc hiện đại và sạch sẽ hơn hẳn. Có lẽ hiện đại và sạch sẽ hơn ở Úc. Tuy nhiên, hầu hết các nhà vệ sinh ở Hàn Quốc, từ trong khách sạn đến các đại học và các khu vực công cộng đều có một đặc điểm giống nhau: chỉ có một lớp cửa chính (không kể cửa phòng nhỏ nơi có bồn cầu).

Ở Tây phương, các nhà vệ sinh thường có hai lớp cửa chính: Bước qua cánh cửa thứ nhất, hoặc người ta sẽ gặp khu rửa tay hoặc một bức tường chắn ngang. Người ta phải qua khỏi cái ngách sau bức tường chắn ngang hoặc đẩy thêm cánh cửa khác mới đến khu vực làm vệ sinh. Cách kiến trúc như vậy có hai mục đích: một, người đứng ngoài không thể nhìn thấy người ở trong phòng vệ sinh; và hai, người mới làm vệ sinh xong, có đủ thì giờ riêng tư để lấy lại tư thế tự tin khi bước ra bên ngoài.

Ở Hàn Quốc thì khác. Tất cả chỉ có một lớp cửa. Mở cánh cửa ấy là thấy ngay dãy bồn tiểu ở khu vực dành cho nam giới. Mà ở những nơi đông người, có lẽ để cho tiện, người ta rất ít khi khép cánh cửa chính ấy. Cứ để mở thông thống. Bước dọc theo hành lang trước nhà vệ sinh nam, liếc mắt vào, người ta sẽ thấy ngay cảnh một số người đang quay lưng lại đứng tè vào bồn. Mà có vẻ như người ta cũng rất tự nhiên khi đứng tè như thế. Lúc đầu, trong một phòng vệ sinh ở tiệm ăn, tôi rất ngạc nhiên khi thấy cảnh ấy. Nhưng lại nghĩ: đó là tiệm ăn. Mấy ngày sau, làm việc ở một trường đại học, tôi cũng lại thấy cảnh ấy. Sau, đi đâu cũng thấy. Cũng cảnh những khu vực vệ sinh chỉ có một lớp cửa và cửa thì lúc nào cũng mở toang hoang như thế.

Ở Trung Quốc, trừ trong phi trường và khách sạn hạng sang, hầu hết các toilet công cộng đều là xí xổm, tức loại hố xí chỉ có bệ chứ không có bồn, theo kiểu các hố xí cổ điển ở Việt Nam trước đây. Ngồi trên hố xí ấy, chúng ta phải ngồi chồm hổm. Điều lạ là ngay ở những nhà hàng thuộc loại sang trọng, người ta cũng xây những kiểu hố xí như vậy. Tuy nhiên, điều đặc biệt là ở các phòng vệ sinh kiểu như thế nhiều khi không hề có giấy! Ngày đầu tiên ở Bắc Kinh, khi ghé lại tham quan một khu di tích lịch sử, mấy người phụ nữ trong tour du lịch của tôi vào nhà vệ sinh. Mấy phút sau, họ nháo nhác chạy ra, hỏi: Ai có khăn giấy (tissues) không? Cả bọn lục trong túi quần túi áo, có bao nhiêu khăn giấy đều giao hết cho họ. Sau đó, từ nhà vệ sinh ra, họ cho biết: trong đó không có giấy!

Hiện tượng không có giấy trong các nhà vệ sinh công cộng ở Trung Quốc có vẻ khá phổ biến. Hỏi người hướng dẫn tour du lịch thì được giải thích: để bao nhiêu giấy mất trộm bấy nhiêu nên người ta hoặc là không cung cấp giấy hoặc là để đâu đó ở phòng ngoài, có nhân viên canh gác.

Nhưng nói chung các phòng vệ sinh công cộng ở Trung Quốc, ít nhất ở các nơi tôi đã đi qua, từ Bắc Kinh đến Vô Tích, Tô Châu, Hàng Châu và Thượng Hải, đều khá sạch. Lúc nào cũng có người quét dọn. Có lẽ nhờ dân số nhiều, lực lượng lao động đông, nhất là lao động đơn giản với mức lương rẻ nên ở Trung Quốc nơi nào cũng thấy người quét dọn. Trước khách sạn và các trung tâm thương mại lớn cũng như trên các đường phố chính, lúc nào cũng có những nhân viên vệ sinh canh trực.  Du khách mới ném một tàn thuốc xuống lề đường, vài phút sau đã thấy có người đến gắp mẩu tàn thuốc ấy. Các gạt tàn thuốc công cộng cũng có người đến dọn dẹp liên tục.  Thường, đó là cái chậu được đổ đầy cát để dọc theo bờ tường. Người hút thuốc sẽ dụi mẩu tàn thuốc xuống cát cho tắt lửa. Nhân viên vệ sinh đến nhặt các mẩu tàn ấy và cào cát lại phẳng phiu như cũ. Khi đi vào trung tâm thương mại ở Thượng Hải, tôi thấy có một nhân viên thường trực trong phòng vệ sinh nam. Anh cần mẫn đến độ cứ đứng ngay sau lưng khách khi họ rửa tay, thấy nước văng lên bàn, anh lại chùi ngay tức khắc. Khách tè văng xuống sàn nhà, anh cũng lại cầm giẻ lau. Buổi trưa, mới đến, tôi thấy anh ở đó. Buổi chiều, trước khi về, tôi ghé vào nhà vệ sinh lần nữa, cũng lại thấy anh đứng đó và làm những động tác tương tự.

Điều đáng nói là cách kiến trúc nhà vệ sinh ở Trung Quốc phần lớn cũng giống ở Hàn Quốc: chỉ có một lớp cửa. Tệ hơn Hàn Quốc, có khi người ta còn thường đặt khu vực rửa tay của nam và nữ chung. Ví dụ, bước vào cửa chính, chúng ta sẽ gặp ngay các bồn nước rửa tay cho cả nam và nữ, rẽ sang tay mặt là phòng vệ sinh nam; tay trái là phòng vệ sinh nữ. Từ phòng rửa tay vào hai dãy phòng vệ sinh cả nam lẫn nữa ở hai bên đều không có cửa. Bên phụ nữ, ít nhất người ta cũng có các phòng nhỏ tương đối riêng tư. Bên nam giới, trừ khi đại tiện, người ta mới vào các phòng nhỏ ấy; còn tiểu tiện thì cứ đứng quay mặt vào tường tè vào các bồn sứ dọc bờ tường. Đứng ở phòng rửa tay, người ta sẽ thấy rõ mồn một. Với người Trung Quốc, nhìn thế thấy quen. Nhưng tôi và bạn bè thì cứ ngường ngượng.

Như vậy, liên quan đến nhà vệ sinh, tôi nghĩ có đến hai cấp độ tiến hoá: Cấp thứ nhất, từ thiếu vệ sinh đến vệ sinh và cấp thứ hai, từ việc thiếu riêng tư đến riêng tư. Nói đến nhà vệ sinh, chúng ta hay nghĩ đến cấp thứ nhất. Dĩ nhiên đó là một cấp quan trọng, quan trọng đến độ nhiều nhà khoa học cho việc phát minh ra nhà vệ sinh là một trong những phát minh quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: nhờ đó, các bệnh dịch giảm hẳn, sức khoẻ con người tốt hơn và tuổi thọ cũng tăng cao hơn. Nhưng còn một khía cạnh khác cũng được một số nhà tư tưởng chú ý: chính việc phát minh ra nhà vệ sinh dẫn đến ý niệm về sự riêng tư, và từ đó, cùng với một số yếu tố khác, dẫn đến việc hình thành chủ nghĩa cá nhân vốn là một trong những trụ cột chính trong nền văn minh và văn hoá Tây phương.

Thời gian ngồi trong toilet, người ta không những giải quyết các vấn đề sinh lý thiết yếu mà còn được hưởng thụ cảm giác một mình, hoàn toàn một mình mình, với thân thể và những vật thải từ thân thể của chính mình. Hoàn toàn một mình. Không chia sẻ với ai được. Cảm giác ấy dần dần làm nảy nở ý niệm về riêng tư. Và ý niệm về riêng tư dần dần trở nên một cốt lõi của chủ nghĩa cá nhân.

Những năm tháng đầu tiên khi người Việt ra sống ở hải ngoại, phần lớn, với những mức độ khác nhau, đều có kinh nghiệm về các cú sốc văn hoá. Chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, cú sốc văn hoá đầu tiên là trong quan hệ với con cái. Con cái, sau một thời gian ngắn đến trường, đã học được bài học đầu tiên của Tây phương: bảo vệ sự riêng tư của mình và tôn trọng sự riêng tư của người khác. Do đó, từ trường về nhà, chúng vào phòng riêng, khép cửa lại. Bố mẹ muốn vào: phải gõ cửa. Thư từ của chúng, bố mẹ không được mở ra đọc. Với chúng, đó là quyền. Là nhân quyền. Nhưng bố mẹ, từ Việt Nam sang, không thể không thấy khó chịu. Phải mất nhiều năm, người ta mới hiểu và mới chấp nhận được điều đó.

Chúng ta hay nói đến dân chủ và nhân quyền nhưng thường hay quên: tôn trọng sự riêng tư của người khác cũng là một hình thức dân chủ và nhân quyền.

Cách xây dựng nhà vệ sinh, do đó, cũng là cách thiết kế những nền tảng đầu tiên của nhân quyền. Và dân chủ.



Nguyễn Hưng Quốc


http://www.facebook.com/notes/nguy%C3%AAn-h%C6%B0ng/c%C3%A1i-toilet-v%C3%A0-quy%E1%BB%81n-l%C3%A0m-ng%C6%B0%E1%BB%9Di/360518393978524
 
Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/dien-dan/58775/nghia-hien-nay-cua-tu--tri-thuc-.html

- Từ “trí thức” xuất hiện năm 1906 với nội hàm mới, đủ phân biệt với những từ ngữ vẫn quen dùng trước đó. “Trí thức” xâm nhập Việt Nam từ ngót trăm năm, đến nay nghĩa gốc có nhiều thay đổi. Đại thể, có hai hướng lớn.

Nghĩa ban đầu


Intellectuel
(tiếng Pháp) hay intellectual (tiếng Anh) trong từ điển vốn là một tính từ, còn danh từ gốc của nó là intellect (trí  tuệ, trí thông minh).

Nhưng một văn bản kháng nghị công bố năm 1906 - do nhà văn Zola ký tên đầu - lại được thủ tướng Pháp Clemenceau (tiến sĩ, nhà báo) gọi là
Tuyên ngôn của Trí thức (Manifeste Des Intellectuels).

Thế là một tính từ trở thành danh từ mới, chưa hề có trong các từ điển lớn trước đó như Larousse 1866-1878 hay Đại từ điển Bách khoa 1885-1902. Ngay sau đó, thế giới đã chấp nhận một từ ngữ mới.  


Đó là bản kháng nghị nổi tiếng, của các nhà văn, nhà khoa học nổi tiếng, chống lại một bản án oan cũng nổi tiếng là xấu xa trong lịch sử tư pháp (xử đại úy Dreyfuss, sau gọi là “Sự kiện Dreyfuss”).


Trên thực tế, các tác giả của bản kháng nghị đã bị chính quyền chỉ trích, phân biệt đối xử, hăm dọa, kể cả tù đầy, nhưng không nao núng, mà vẫn theo đuổi sự việc tới cùng. Nay gọi là
dấn thân.

Như vậy, danh từ “trí  thức” ra đời nhân một sự kiện chống bất công nói riêng và chống mọi bất cập của xã hội nói chung.


Từ đó, một người có học vấn cao sẽ được mang danh “trí thức” nếu ông ta sẵn sàng tạm bước ra khỏi lĩnh vực chuyên sâu của mình để lên tiếng – với lập luận vững chắc - về những bất cập xã hội, với động cơ không vụ lợi. Nay gọi là
phản biện.

Sau 100 năm, nghĩa gốc bị thay đổi


Từ rất lâu trước khi có từ “trí thức”, xã hội đã sử dụng nhiều từ tôn vinh dành cho những người có học vấn uyên thâm, làm nghề sáng tạo: nào là học giả, nhà văn, nào là nghệ sĩ, bác học…


Đó là bước tiến lớn khi xã hội nhận ra các sản phẩm tinh thần ngày càng đặc trưng cho văn minh nhân loại.


Từ “trí thức” xuất hiện năm 1906 với nội hàm mới, đủ phân biệt với những từ ngữ vẫn quen dùng trước đó… Để được gọi là trí thức, điều kiện “cần” là làm nghề sáng tạo các giá trị tinh thần; còn điều kiện “đủ” là phản biện xã hội - để xã hội tốt đẹp thêm.


“Trí thức” xâm nhập Việt Nam từ ngót trăm năm, đến nay nghĩa gốc có nhiều thay đổi. Đại thể, có hai hướng lớn:
 - Một hướng cố giữ nguyên nghĩa: tuy chỉ thoi thóp, bị chìm lấp, nhưng khi cần thiết và gặp hoàn cảnh thuận lợi vẫn cứ bùng lên - chứng tỏ nó chưa chết hẳn. Bằng chứng là cách đây 5 năm - khi mọi người thảo luận sôi nổi về vai trò trí thức - đã có những “suy nghĩ về khái niệm trí thức”. Sau đó, thêm một ý kiến khác tỏ vẻ không đồng tình (với hướng thứ hai) về sự tầm thường hóa trí thức, với nhận định “trí thức ngày càng đông, nhưng càng… không đúng nghĩa”…

- Một hướng khác, áp đảo, đã rất thành công biến “trí thức” thành một từ bao quát và gói ghém trong nó tất cả các từ cụ thể quen dùng trước đó (như: học giả, soạn giả, tác gia, bác học, văn gia…). Ở mức độ cụ thể hơn nữa, ta có các từ chỉ rõ bằng cấp và nghề nghiệp của họ (ví dụ): tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, giáo sư, nhà văn, nhà khoa học, nhà toán học… Tất cả, đều được quan điểm này coi là trí thức.


Theo hướng thứ hai, công lao của người sáng tạo từ “trí thức” rốt cuộc chỉ là đưa ra một từ chung, để gộp vào nó các từ sẵn có về giới “có học” trong xã hội.  


Hướng thứ hai mạnh tới mức khuất phục được cả nhiều người soạn từ điển và soạn Nghị Quyết ở nước ta. Và do vậy, cũng là ý kiến của đông đảo bạn đọc trong cuộc
thảo luận đầu năm 2012. Cụ thể, số người nói giống như GS Ngô Bảo Châu (và như Nghị Quyết) vẫn đông gấp bội số người đồng ý với GS Chu Hảo.

GS Ngô Bảo Châu:


"Tôi không đồng ý với việc coi phản biện xã  hội như chỉ tiêu  để được phong hàm “trí thức”… giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội".


Nghị quyết số 27-NQ/TW (6-8-2008) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đã đưa quan điểm:


Trí  thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất  định, có năng lực tư  duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội.


GS Chu Hảo:


Không có  tư duy phản biện, không phải là trí thức.


Sự  thuận tiện và đắc dụng


Hướng thứ hai chiếm thế  áp đảo, được xem là chính thống, vì nó đem lại nhiều cái lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Thí dụ, sự thuận tiện khi cần nói gộp. Nó giúp chúng ta gộp vào khái niệm trí thức, từ Hoàng Tụy, Ngô Bảo Châu cho tới một người thầy tốt nghiệp trường cao đẳng nay dạy Toán ở bậc trung học ( cũng như trước đây rất thuận tiện khi gộp một văn hào với viên thư ký của ông ta vào giai cấp tiểu tư sản vậy).


Nó càng thuận tiện khi cần tổng kết thành tích đào tạo. Nếu – như hiện nay - coi tốt nghiệp cao đẳng cũng là trí thức, thì số lượng giới này của chúng ta đào tạo ra đã tới vài triệu – là đông đảo, hết sức phong phú.


Đương nhiên, để phát huy sức mạnh xây dựng CNXH của đông đảo trí thức, cần phải xếp họ vào đội ngũ – đúng như nghị quyết đã chỉ rõ. Nó cũng giúp chúng ta hiểu thêm một đặc trưng lớn của trí thức XHCN.
  • GS Nguyễn Ngọc Lanh
TRÍ THỨC LÀ GÌ?

Lời chủ nhân blog:
Gần đây, có nhiều bàn tán về trí thức là gì, vai trò của trí thức, v.v. Tôi nghĩ tôi cần học thêm về vấn đề này. Có mấy bài đáng suy ngẫm nên tôi lưu lại để học hỏi.
“Kẻ nào không tham gia vào việc công thì phải là súc vật hay thần thánh!”  – Triết gia Aristotle.
“Trí thức là những người có sự hiểu biết và biết thức tỉnh xã hội” – Giản Tư Trung.
“Người trí thức là người không để cho xã hội ngủ” – GS. Cao Huy Thuần
“Có 4 hạng trí thức trong xã hội Việt Nam ngày nay. Hạng 1 là những người “trí thức thứ thiệt”, đau đáu với vận mệnh đất nước quê hương và sẵn sàng dấn thân, cho dù họ không được lòng của giới cầm quyền. Hạng 2 là những người cũng quan tâm đến đất nước và dân tộc, cũng bức xúc trước những bất cập của xã hội, nhưng họ không dám dấn thân; Thay vì dấn thân, họ co rút trong cái không gian và môi trường nhỏ bé là gia đình. Hạng 3 là những người không màn đến các vấn đề xã hội dù cũng có chút hiểu biết về chính trị, nhưng họ không lên tiếng, không có hành động, mà thay vào đó là thái độ xu nịnh và lo làm ăn vì quyền lợi kinh tế cá nhân; Họ là những người thiếu lập trường, không có niềm tin, nhưng lại rất hãnh diện về những học vị và học hàm (có thể là dỏm hay mua bán) của họ. Hạng 4 là những người cũng thông minh, nhạy cảm với thời cuộc, và sử dụng thông minh của mình để dèm pha người khác; họ là những con buôn chính trị” – Đào Tiến Thi
“Nhưng theo cách hiểu của tôi thì chỉ có hạng 1 là những người trí thức thật sự, còn hạng 2, 3 và 4 thì ngụy trí thức là đúng hơn” - GS. Nguyễn Văn Tuấn
“Trí thức là người có tầm nhìn đứng cao hơn tầm nhìn chuyên môn của một chuyên viên” – Nguyễn Quang Minh
“Xuất phát từ thái độ trân trọng những lo âu dằn vặt của người khác, đặc biệt của những tấm gương khả kính, tôi xin bầy tỏ thái độ trân trọng đối với những vị đã gợi ý câu hỏi “trí thức là gì?” - Phạm Việt Hưng
“Nhưng gạt bỏ (việc bàn về khái niệm trí thức – NV) để khuyên người khác là nên chuyên tâm vào những việc khác (như những việc đại sự của các nhà có tầm vóc đã làm) và cho là các người (bàn về khái niệm trí thức – NV) là làm chuyện “bánh vẽ” thì tôi cho là trẻ con (nhẹ) hay khinh người, fascist học thuật (nặng)” – Nguyễn Đức Hiệp
“Đã là trí thức thì phải là người có tầm, có trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội” – GS. Nguyễn Huệ Chi
“Biết bao giờ người Việt (ít ra là người Việt có học thức) mới biết tranh luận cho ra hồn” – GS. Phạm Quang Tuấn
“Rõ ràng bạn không thể vừa được người ta cấp xe sang (hay tặng nhà to) lại vừa có Tự Do (hay Công Lý). Bạn chỉ có thể chọn một trong hai thứ đó. Lập luận rằng cưỡi xe BMW mới tiến được hoặc tiến nhanh hơn tới Công Lý (hay Tự Do) là ngụy biện, tự dối mình và lừa dối người khác. Đặc biệt, nếu bạn là một người lao động trí óc theo một chuyên môn nào đó, việc bạn chọn cái gì sẽ tự động xếp bạn vào hàng ngũ những ‘trí thức dự khuyết’, hay vào đám học giả xu thời đang ngày càng lạm phát trên đất nước này“ - TS. Nguyễn Đình Đăng
“Tôi luôn luôn tâm niệm lời dạy của Francois Rabelais: “Science sans conscience n’est que ruine de l’âme” (Khoa học vô lương chỉ là sự hư nát của linh hồn). Nói một cách dân dã thì khoa học chẳng là cái đinh gì cả nếu nó không luôn luôn tỉnh thức để đề cao lương tri. Kỳ vọng về phản biện của trí thức chẳng qua là kỳ vọng vào lương tri của trí thức, đơn giản có thế thôi. Chẳng lẽ điều đó sai ư?” - Phạm Việt Hưng
“Đóng góp theo kiểu người trí thức có nghĩa là dùng những khả năng mà người ta đặc biệt associate với trí thức: khả năng suy nghĩ độc lập, không để mình bị nhồi sọ hay bịt mắt, biết tự mình suy xét, khả năng tự học, tự tìm information, đánh giá và kết hợp information để có một cái nhìn đứng đắn về xã hội, tự tìm hiểu về những vấn đề của xã hội, và từ đó tự suy ra con đường phải làm gì do sự thúc đẩy của lương tâm. … Nhưng đánh đồng “trí thức” với “từ thiện” với “lao động trí óc” v.v. theo tôi, là muddled thinking” - GS. Phạm Quang Tuấn
(Trích từ blog của TS Toán học Lê Văn Út, ĐH Oulu, Phần Lan)
 
Nhưng nói Không phản biện xã hội thì không phải là trí thức lại là võ đoán thiếu bao dung, không có lợi cho việc động viên đa số giới trí thức.


"Cuộc tranh luận đang diễn ra hiện nay về vấn đề trí thức với phản biện xã hội không chỉ đề cập tới trách nhiệm phản biện của giới trí thức mà còn từ góc độ nào đó đề cập tới sự lãnh đạo chính trị ở Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà một số trí thức gốc Việt ở nước ngoài, thậm chí cả trí thức Pháp [1] lại hăng hái phát biểu về chủ đề trên. Vì thế cuộc tranh luận này nên có thêm nhiều người tham gia."

"Phong hàm" trí thức...

Trí thức là một khái niệm rất rộng. Mỗi xã hội, mỗi thời, mỗi người hiểu theo cách khác nhau, khó có thể nhất trí với một định nghĩa nào đó.

Chẳng hạn trong khi Nghị quyết số 27-NQ/TW: Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất  định, có năng lực tư  duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội, thì Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ mới đây đăng bài "65 trí thức trẻ đầu tiên tốt nghiệp lớp bồi dưỡng làm Phó Chủ tịch xã nghèo". Các trí thức này đều là sinh viên mới ra trường! Đây là cách hiểu dân dã rất phổ biến.

Thời xưa khi mặt bằng dân trí thấp thì một ông đồ làng, một anh giáo tiểu học cũng được coi là trí thức. Tại Trung Quốc hồi thập niên 50-70 bất cứ ai có trình độ văn hóa cấp III (trung học phổ thông) trở lên, đều bị coi là trí thức và bị xếp hạng ở dưới "công nông binh": Thời Cách mạng văn hóa, học sinh sinh viên đều bị gọi là Thanh niên trí thức và bị xua về nông thôn lao động cải tạo.

Thời nay trí thức ta không còn bị coi rẻ nữa nhưng cũng chẳng mấy ai tự nhận là trí thức, trừ người được phong hàm GS, Phó GS kèm theo tiêu chuẩn đãi ngộ cao (kể cả khi chết - chuyện chỉ có ở ta). Vì thế sẽ thật khó hiểu nếu ai đó định dựa vào tiêu chuẩn hoặc định nghĩa này nọ để "phong hàm" trí thức cho người khác.

Có một cái luật bất thành văn: Trí thức có trách nhiệm nặng nề hơn với xã hội, có nghĩa vụ hướng dẫn dư luận. Theo cách nghĩ phổ biến hiện nay, họ phải phản biện xã hội - được hiểu là công khai lên tiếng về các vấn đề tồn tại trong xã hội.

Thực ra ai cũng đều có nghĩa vụ phản biện xã hội. Đây là hành động dấn thân vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn. Trí thức, nhất là trí thức ngành xã hội- nhân văn lại càng nên gánh vác nghĩa vụ này. Điều đó sẽ làm tăng giá trị của họ. Các cán bộ lãnh đạo, các đại biểu dân cử (đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân) và đảng viên cộng sản- những người trong đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc, lại càng không thể thoái thác nhiệm vụ phản biện xã hội.

Nhưng do vai trò đặc biệt của mình, người trí thức cần rất tỉnh táo và thận trọng khi phản biện xã hội.

Có những vấn đề chính trị và xã hội đơn giản và đã rõ ràng, bạn có thể nhanh chóng phát biểu quan điểm. Nhưng có lắm vấn đề bạn nhất thiết phải dành ra nhiều tâm trí và thời gian để tìm hiểu, theo dõi và suy ngẫm. Chưa hiểu đến nơi đến chốn mà đã phản biện thì có khi lại gây hại cho xã hội và cho chính mình, nhất là với nhà trí thức có địa vị cao.



Trí thức có trách nhiệm nặng nề hơn với xã hội, có nghĩa vụ hướng dẫn dư luận. Ảnh minh họa

Hiển nhiên, giá trị chủ yếu của bất cứ người nào được đánh giá qua cống hiến của người đó cho xã hội, thể hiện ở khối lượng và chất lượng sản phẩm làm được trong chuyên ngành của mình.

Người trí thức trước hết phải giỏi chuyên môn, phải có cống hiến về chuyên môn. Phản biện xã hội là một nghĩa vụ nên làm nhưng không bắt buộc, càng không thể coi là tiêu chuẩn phân loại trí thức. Bác sĩ phẫu thuật nhất thiết phải giỏi cầm dao mổ; không phản biện cũng vẫn là trí thức thứ thiệt.

Vì phản biện mà chuyên môn kém lại càng không nên. Kém năng lực phản biện, hoặc thấy chỉ làm chuyên môn sẽ cống hiến tốt hơn thì chẳng nên phản biện. Thiếu tỉnh táo dấn thân phản biện hoặc làm những việc ngoài chuyên môn có khi lại có hại.

Tóm lại có thể thấy câu nói của GS Ngô Bảo Châu: "Giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm người đó làm ra, không liên quan gì đến vấn đề phản biện xã hội... Những người có học, có tri thức thật ra cần phải rất tỉnh táo khi tham gia việc phản biện xã hội." tuy có lý nhưng chưa đủ sức thuyết phục.

GS Chu Hảo nói Không có tư duy phản biện thì không phải là trí thức cũng chẳng sai. Ở đây GS chỉ nói về tư duy phản biện mà thôi. Trí thức thứ thiệt dĩ nhiên phải có tư duy phản biện- nghĩa là dám nghi ngờ, xét lại lý thuyết, thành tựu của người đi trước- nó không liên quan gì tới hành động phản biện xã hội.

...Và không thể tước "hàm" trí thức

Nhưng nói Không phản biện xã hội thì không phải là trí thức lại là võ đoán thiếu bao dung, không có lợi cho việc động viên đa số giới trí thức.

Lịch sử cho thấy phần đông trí thức thời nào cũng không thích tham gia chính trị và phản biện xã hội. Họ làm thế có thể vì nhiều lý do như ngại mất thời giờ làm công tác chuyên môn, ngại bị trù úm, quyền lợi tinh thần vật chất của mình và gia đình bị suy suyển v.v...

Từng có những nhà trí thức suốt đời chẳng biết gì ngoài chuyên môn của mình, đến mức bị coi là khờ dại, ngớ ngẩn. Cũng có trí thức coi chính trị là chuyện vô bổ và lắm cạm bẫy khôn lường, chớ dại gì dính vào mà mất thời gian, thậm chí tiêu ma sự nghiệp chuyên môn của mình.

Chẳng nên đơn giản quy kết họ ích kỷ, không yêu nước thương dân. Bạn có thể gọi họ là trí ngủ hoặc trí thức trùm chăn, nhưng bạn không thể tước được cái "hàm" trí thức của họ. Và đừng nghĩ họ cống hiến kém những người hăng hái phản biện xã hội.

GS Tương Lai có lý khi nói "Người trí thức phải hành động. Nhưng hành động như thế nào là tùy theo bản lĩnh, trí tuệ, nhận thức và vị thế của họ."

Cùng vì một mục đích lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp nhưng Phan Bội Châu chủ trương bạo động còn Phan Châu Trinh lại muốn nhờ Pháp giúp nâng cao dân trí, song cả hai cụ đều được dân tộc ta tôn vinh là hai nhà yêu nước vĩ đại.

Tôi có biết một anh bạn đang tham gia nghiên cứu một lĩnh vực cần thiết, công việc bận tới mức anh chẳng có thì giờ nói hoặc viết bài bàn luận chuyện này nọ như chúng tôi. Nhưng rõ ràng người "trùm chăn" vùi đầu làm chuyên môn như anh thì hữu ích cho Tổ quốc hơn chúng tôi cả nghìn lần. Và chắc mọi người sẽ dễ dàng đồng ý anh nên dành thời gian rảnh để đọc thêm tài liệu chuyên môn chứ chẳng nên... phản biện xã hội.

Giá trị của người trí thức cũng không liên quan lắm đến thân phận xã hội của họ.

Có người còn lợi dụng tranh luận để phê phán, thậm chí động chạm đến chuyện riêng tư của người khác. Trong lần tranh luận này chẳng rõ vì động cơ nào mà có phát ngôn bóng gió nhắc tới chuyện GS Ngô Bảo Châu từng nhận những ân huệ này nọ của Nhà nước, vì thế mà bị mất tự do và phải từ bỏ truyền thống phản biện trước đây của mình.

Cách phát ngôn ấy dễ dẫn tới hiểu nhầm và làm người khác nhụt chí, trong khi lẽ ra cần cố gắng khuyến khích mọi người nói ra quan điểm của họ. Rõ ràng tranh luận kiểu như thế thì không "ra hồn" và chẳng bổ ích cho ai cả.

Phạm Quỳnh vì phục vụ chính quyền Pháp và triều đình Huế mà bị các trí thức yêu nước lên án, nhưng ông vẫn có cống hiến lớn cho văn hóa dân tộc ta. Thời ấy rất ít trí thức dám phản biện xã hội. Phần lớn an phận làm công chức cho chính quyền Pháp, nhưng không thể vì thế mà phủ nhận địa vị trí thức và đóng góp của họ.

Không ít chuyên gia làm vũ khí cho nước Đức phát xít (như Werner Braun) đã có cống hiến lớn về khoa học, sau Thế chiến II được Mỹ trọng dụng chẳng kém các nhà trí thức chống phát xít. Dĩ nhiên sẽ tốt hơn nếu Phạm Quỳnh không làm việc cho thực dân, phong kiến, Braun không phục vụ Hitler. Nhưng ai dám bảo họ không phải là trí thức và không có giá trị?

Phải chăng nên cảnh giác với những người hăng hái phản biện vì các mục đích... khó hiểu? Nghe đâu ở Pháp có ông Henri Lévy, một trí thức đẹp trai có tài ăn nói, hay lên tiếng phê phán đủ thứ chuyện trên đời, nhưng bị chê là thực tài xoàng, chỉ giỏi tự đánh bóng tên tuổi bằng cách luôn xuất hiện trên báo đài. Năm 2006 có hai nhà báo từng viết cuốn Một vụ lừa bịp ở Pháp [2] nhằm hạ bệ thần tượng này.

Cũng chớ nên quên ý kiến của GS Phạm Quang Tuấn : "Biết bao giờ người Việt (ít ra là người Việt có học thức) mới biết tranh luận cho ra hồn" [3]. Quả thật trong một số cuộc tranh luận trước đây đôi khi có người tỏ ra thiếu bao dung, luôn khẳng định quan điểm của mình là chân lý mà chưa thấy tranh luận là một dịp tốt để học hỏi.

Có người còn lợi dụng tranh luận để phê phán, thậm chí động chạm đến chuyện riêng tư của người khác. Trong lần tranh luận này chẳng rõ vì động cơ nào mà có phát ngôn bóng gió nhắc tới chuyện GS Ngô Bảo Châu từng nhận những ân huệ này nọ của Nhà nước, vì thế mà bị mất tự do và phải từ bỏ truyền thống phản biện trước đây của mình.

Cách phát ngôn ấy dễ dẫn tới hiểu nhầm và làm người khác nhụt chí, trong khi lẽ ra cần cố gắng khuyến khích mọi người nói ra quan điểm của họ. Rõ ràng tranh luận kiểu như thế thì không "ra hồn" và chẳng bổ ích cho ai cả.

Hồ Anh Hải ------------

Chú thích :

[1] Tiến sĩ Jean-Francois Sabouret, Giám đốc Viện Nghiên cứu Thế Giới Châu Á (của Pháp).

[2] Une imposture francaise. Tác giả : Nicolas Beau và Olivier Toscer.

[3] Xem : http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/dien-dan/58775/nghia-hien-nay-cua-tu--tri-thuc-.html

 

 
http://thegioif5.com/co-tich-tran-quoc-vuong/
 
Rạp Đại Nam - không gian đẹp cho những... tiệc cưới.

Ăn ngon, hát hay, không gian đẹp


Một bạn trẻ có tên Lan đã rất hài lòng khi tới ăn cưới tại rạp Đại Nam- nơi những tưởng người ta chỉ đến để xem Nhà hát Chèo Hà Nội biểu diễn. 'Vừa rồi, mình đi đám cưới đứa bạn ở đây, công nhận là không gian nhìn đẹp thật, đồ ăn nóng và ngon ra phết. Cô dâu chú rể nào muốn chi phí phải chăng mà không gian đẹp thì lựa chọn ở đây khá ok đấy', cô chia sẻ trên trang web cẩm nang mùa cưới.

Một không gian đẹp với ánh đèn ngọt, sáng rạng rỡ luôn là thế mạnh của không gian sảnh các nhà hát, trung tâm nghệ thuật biểu diễn. Đương nhiên, âm thanh được các nghệ sĩ xử lý chuyên nghiệp càng khác xa với việc hát riêng với nhau tại quán ka-ra-ô-kê hay hội trường cơ quan.

Vì thế, các nghệ sĩ quần chúng của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam hẳn cũng rất hài lòng với không gian Trung tâm biểu diễn nghệ thuật Âu Cơ khi tổ chức hội diễn 'Tiếng hát những người đi tìm lửa' kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống ở đó. Trong khuôn hình ngoài sảnh trung tâm, những nụ cười tươi rói trên môi đội văn nghệ. Hậu cảnh tấm hình là chân dung những nghệ sĩ đã làm nên tên tuổi Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam- chủ nhân chính thức của trung tâm biểu diễn này.

Trung tâm biểu diễn nghệ thuật Âu Cơ cũng trở nên quen thuộc với nhiều hoạt động của Đài Truyền hình Việt Nam mà chương trình chung kết năm của Đồ rê mí là một thí dụ. Với lượng khán giả nhí quá đông đảo, các trường quay của Đài không thể đáp ứng nổi, trung tâm là lựa chọn số một nhờ địa thế và các điều kiện kỹ thuật.

Ít sáng đèn cho nghệ thuật


Nhưng đèn ở những địa điểm trên được bật sáng cho các hoạt động 'ngoại khóa' nhiều bao nhiêu, thì sáng cho hoạt động của nhà hát chủ quản lại ít bấy nhiêu.

Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam hiện chưa có chương trình biểu diễn định kỳ tại chính trụ sở của mình. Theo lịch biểu diễn, trong chín tháng đầu năm nay, nhà hát chỉ có 11 chương trình biểu diễn. Trong số đó, cũng chỉ có bảy chương trình được diễn tại Trung tâm Âu Cơ. Như vậy, trung bình nhà hát sử dụng trụ sở để biểu diễn chưa đến một đêm/tháng.

Tất nhiên, bên cạnh những chương trình tại đại bản doanh, nhà hát còn có những chương trình nghệ thuật lưu diễn. Mới đây nhất, nhà hát đã mang 'Hồn sen Việt' sang Na Uy trong khuôn khổ 'Những ngày văn hóa du lịch Việt Nam' tại Đan Mạch và Na Uy. Trước đó, cuối tháng 10, nhà hát cũng xây dựng và biểu diễn chương trình nghệ thuật trong lễ xuất quân Đoàn thể thao Việt Nam tham dự SEA Games 26. Mặc dù vậy, sự thiếu thốn chương trình phục vụ khán giả thường xuyên cũng không khỏi khiến những người yêu mến nhà hát ngậm ngùi.

Ông Trương Ngọc Xuyên, Phó Giám đốc nhà hát cho biết: 'Nhiều đơn vị muốn tổ chức các hoạt động ở nhà hát và chúng tôi cũng tạo điều kiện. Về phần mình, nhà hát cũng thường xuyên dựng các chương trình mới. Các chương trình này phần lớn được dàn dựng công phu với cả múa và hát. Tuy nhiên, cũng vì công phu và số lượng ghế ngồi lớn nên cũng khó tổ chức được liên tục.'

Nhưng như thế cũng vẫn còn hơn lịch diễn của Nhà hát chèo Hà Nội nhiều lần. Sân khấu rạp Đại Nam ở phố Huế đã nguội lạnh từ rất lâu, kể từ 'chiến dịch' quốc tế thiếu nhi với vở 'Ăn khế trả vàng' và 'Quả táo thần'. Và cho dù nóng tới sáu xuất diễn một ngày trong tháng 5, 'Quả táo thần' cũng không thể tiếp tục hút khách. Rạp Đại Nam cũng chỉ lác đác tiếng hát chèo từ bấy đến giờ.

Lịch diễn của Nhà hát Chèo Việt Nam tại rạp Kim Mã cũng rất ít. Ông Hà Quốc Minh, Giám đốc nhà hát cho biết: 'Chúng tôi chỉ diễn hai buổi sân khấu nhỏ, một buổi sân khấu lớn mỗi tháng'.

Khán giả nào sân khấu ấy


'Chúng ta đang ở trong một thời kỳ lạnh lẽo của thưởng thức nghệ thuật. Nếu so sánh với thời Nhà hát Hà Nội sáng đèn liên miên trước đây sẽ thấy thói quen đến rạp của khán giả đã bị đứt gãy', nhà nghiên cứu văn hóa Bùi Trọng Hiền, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam nhận định- 'Sự đứt gãy này không chỉ diễn ra ở các loại hình nghệ thuật dân tộc mà cả những nghệ thuật khác như nhạc nhẹ, kịch nói... Giờ đây, khán giả không có thói quen thường xuyên đến rạp nữa. Họ cũng không còn thói quen đón chờ một đêm diễn hay. Cùng với điều đó, không chỉ gu thưởng thức của khán giả đi xuống mà đời sống diễn viên cũng lao đao'.

Khi các nhà hát phải tự lo cho cuộc sống của diễn viên, việc tận dụng cơ sở vật chất để kinh doanh hoàn toàn không phải là điều xấu hay vi phạm pháp luật. Nhưng sự năng động đó đáp ứng nhu cầu kinh tế hơn là nhu cầu sáng tạo nghệ thuật vốn là kim chỉ nam cho sự ra đời, tồn tại và hoạt động của mọi nhà hát.

'Tôi nghĩ, điều mãi mãi đúng là khán giả nào sân khấu ấy. Khi công chúng không mặn mà với nhà hát thì nhà hát lạnh lẽo là đương nhiên. Chúng ta khó có thể có lại được văn hóa thưởng thức nghệ thuật nếu khán giả không được đào tạo. Và việc đào tạo đó phải được thực hiện từ bậc giáo dục phổ cập thấp nhất là nhà trẻ'- PGS,TS Nguyễn Thị Minh Thái nhận định.

Ông Nguyễn Đăng Chương, Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch):




Theo Nghị định 53 của Thủ tướng Chính phủ, quy định đối với các đơn vị nghệ thuật trực thuộc bộ mà đã có địa điểm biểu diễn thì được tự chủ về hoạt động và tài chính. Như vậy, đòi hỏi các đơn vị này phải tự vận động, làm sao để có tác phẩm hay, thường xuyên 'đỏ đèn' ở các rạp. Đối với các nhà hát chưa có rạp thì bộ sẽ căn cứ trên cơ sở đề án quy hoạch của Chính phủ để giải quyết. Trong tình hình chung đang rất khó khăn về quỹ đất và phân bổ địa điểm như hiện nay, có thể một vài năm tới bộ chưa thể giải quyết cơ bản vấn đề này được. Theo tôi, giải pháp để khắc phục thực trạng vừa thừa vừa thiếu các điểm biểu diễn: trước hết cần tập trung quy hoạch lại tổng thể các điểm biểu diễn công lập, triển khai đề án quy hoạch của Chính phủ đã phê duyệt, đào tạo lại đội ngũ tác giả - diễn viên, và khẩn trương thực hiện các chế độ chính sách đầu tư cho văn hóa một cách nghiêm túc.


NSƯT Trương Nhuận, Phó giám đốc Nhà hát Tuổi Trẻ:




Nhìn chung về các điểm biểu diễn nghệ thuật ở những thành phố lớn nằm trong tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa ở chỗ nhiều nhà hát (cả cũ và mới xây dựng gần đây) đều chưa được sử dụng hết công suất; còn nhiều chương trình thu hút rất đông khán giả thì lại thiếu những điểm biểu diễn lý tưởng. Có một phần nguyên nhân là do quy hoạch xây dựng và kiến trúc chưa chuẩn với yêu cầu công năng; nhưng theo tôi, trước hết là do không có chương trình biểu diễn, không tạo ra được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của khán giả và chưa có chương trình hay để thu hút công chúng đến các nhà hát. Với các hoạt động biểu diễn ngoài trời, phục vụ miễn phí lại thu hút rất đông khán giả. Qua đó cho thấy nhu cầu xã hội là có, cái chính là Nhà nước cần phải có các dự án hỗ trợ, hưởng ứng các hoạt động văn hóa để tạo ra nhu cầu thường xuyên cho công chúng. Bên cạnh đó, các nghệ sĩ, các nhà tổ chức cũng phải năng động để có những chương trình hấp dẫn hơn.


http://www.baomoi.com/Khi-nha-hat-khong-de-hat/52/7519359.epi
 
http://vietnamnet.vn/vn/van-hoa/60267/nha-hat-bac-ti-bien-thanh-noi-to-chuc-dam-cuoi.html
 
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11173&rb=0202
 
Start blogging by creating a new post. You can edit or delete me by clicking under the comments. You can also customize your sidebar by dragging in elements from the top bar.