Picture
Năm 1927, khi Victor Tardieu hoàn thành bức vẽ kinh điển trên giảng đường Đại học Đông Dương thời bấy giờ (Hội trường Ngụy Như Kon Tum ngày nay) sau 6 năm lao động nghệ thuật miệt mài, chắc hẳn ông cũng không ngờ có ngày trong cái giảng đường ấy lại vang lên những bản nhạc rock sôi nổi, những bài R&B bốc lửa, những bản jazz gợi cảm và những bản tình ca ấm lòng. Không gian âm nhạc số 10 đã mang đến tất cả những tình cảm ấy qua giọng hát của Uyên Linh và Tấn Minh.

Tôi không làm nghề nhưng trộm nghĩ biên tập và dàn dựng một chương trình ca nhạc là khó lắm. Làm sao để tìm được những bài hát phù hợp với ca sỹ, sắp xếp thứ tự ra sao, hòa âm phối khí thế nào, quản lý cái ego to đùng của các ca sỹ ra sao,...tóm lại là rất khó. Nếu lôi cái triết lý âm dương mà mọi tạo vật đều khó tránh khỏi thì Tấn Minh là Dương mà Uyên Linh là Âm. Nhưng nếu thế thì đơn giản quá và chẳng có gì bất ngờ, Tấn Minh là Dương mà êm đềm mềm mại, có lúc tha thiết đến xao lòng. Uyên Linh là âm mà mạnh mẽ chói chang, đốt khán phòng và lòng người bằng chất giọng khỏe khoắn và vẻ ‘‘ngây thơ’’ chết người.

30 bản tình ca đã vang lên như thế trong khán phòng, phả cái nóng lạnh của tình cảm con người lên một khán phòng không dễ chinh phục. Thế nhưng vì Không gian âm nhạc là một chương trình tinh hoa nên người nghe khó ngăn được mình ‘‘khó tính’’. Tài năng của Uyên Linh là không thể phủ nhận, người nghe còn ‘‘chấm điểm + ’’ cho cô vì cô không qua trường lớp mà thành danh từ chính tình yêu ca hát và nội lực của mình. Thế nhưng viên ngọc quý ấy vẫn cần được mài giũa để bàn tay và chuyển động của cơ thể và khuôn mặt trên sân khấu ‘‘hợp lý’’ hơn và không thừa thãi. Less is more có lẽ là lời khuyên tốt nhất với tài năng trẻ này. Đâu đó người ta vẫn thấy cái bóng của Thanh Lam, một chút Siu Black, một chút gì Toni Braxon, một chút Whitney Houston. Cô đặc biệt quyến rũ với những bài mang âm hưởng rock, R&B, jazz (tại sao không?) hơn là những bài tâm tình, tự sự. Cô cũng có thể chiếm lĩnh khán phòng tốt hơn với những bài hát sôi động khi chỉ cần bước xuống phía khán giả hoặc một động tác mời vỗ tay. Khán phòng lúc ấy đã như đám bùi nhùi khô chưa gặp lửa. Bỏ qua tất cả những điều trên, tôi vẫn gọi cô (một cách phàm phu) là món thịt bò kô bê, ngon tuyệt vời và hiếm có.

Tấn Minh hát say mê như chưa từng được đón nhận nhiều như thế. Anh nồng nàn say đắm với những bản tình ca, anh như con tằm chậm rãi nhả những sợi tơ tình óng ánh của Đỗ Bảo, Phú Quang, ngọt ngào như rượu vang hái muộn. Ban nhạc tuyệt vời và giọng hát hiếm có của giọng ca vàng Asean năm 98 đã làm người nghe đi hết từ bài này sang bài khác với các cung bậc ngọt ngào hay cay đắng mà không bi lụy của tình yêu lứa đôi, tình yêu một thành phố, tình yêu những bờ cây ngọn cỏ. Tuy nhiên, Tấn Minh sẽ thực sự ‘‘hớp hồn’’ khán giả nếu anh giao lưu với họ nhiều hơn bằng mắt, bằng những lời nói hóm hỉnh hơn. Giá mà anh thêm vào nhạc mục đêm ấy một số bài phối theo phong cách jazz hay blue thì hương vị món ăn còn đậm đà hơn biết mấy. Trong những bài song ca với nhau, dường như Tấn Minh trở nên rụt rè và dường như yếu ớt trước một Uyên Linh mãnh liệt. Cũng phải nói rằng tìm được bài hát đôi phù hợp cho hai người này là quá khó (không biết sau này có tìm được không?). Tấn Minh như một chai rượu vang trắng ngọt, lên men từ những quả nho hái muộn, cho ra một vị ngọt tuyệt hảo và dễ làm người ta say mềm môi mất lối về.

Thịt bò Kô bê hảo hạng, rượu vang trắng hảo hạng, Không gian âm nhạc dưới bàn tay của Việt Tú và Chu Minh Vũ đã thực sự là một bữa tiệc. Vì thế mà khó có thể cưỡng lại sức hút của không gian âm nhạc đỉnh cao này (số lượng người đặt vé cả năm và số lượng đông đảo ‘‘phe’’ vé trước cửa 19 Lê Thánh Tông đã chứng mình cho điều ấy).  Sự chưa hoàn hảo của Không gian âm nhạc số 10 (trên thực tế làm gì có cái gì hoàn hảo nhỉ?) chỉ ở chỗ thịt bò kô bê uống cùng lúc với rượu vang trắng thì khó có thể đẩy hương vị của mỗi cái lên cao nhất. Ông có thấy vậy không vị hiệu trưởng người Pháp khai sinh ra trường Mỹ Thuật Đông Dương?

Nguyễn Đình Thành

2/3/2012


 

Kính thưa quý vị,
Khi còn đi học, thầy tôi đã dùng hình ảnh của Prométhée với tình cảnh của ngành xuất bản. Vị thần này bị cột trên vách đá và bị đại bàng hàng ngày đến moi gan nhưng không chết nhờ vào một sức sống mãnh liệt. Còn với tôi, dịch văn học cũng thế, nó không bao giờ chết đi mà chỉ phát triển có bước thăng bước trầm. Nói như vậy vì cho tới giờ, chẳng mấy người sống được nhờ dịch văn học nhưng đội ngũ người dịch vẫn ngày càng đông lên, những người đã có tác phẩm dịch vẫn tiếp tục dịch. Các giải thưởng dành cho người dịch và hơn cả là sự động viên, đón nhận của độc giả là động cơ và phần thưởng cao quý nhất dành cho một người dịch.

Thưa quý vị,

Giải thưởng văn học dịch của Hội nhà văn Hà Nội là một niềm vinh dự lớn lao với tất cả những ai đã và đang chọn bước đi trên con đường dịch thuật. Giải thưởng này càng ý nghĩa hơn với bản thân tôi với tư cách là một người ngoại đạo.

Ai cũng biết dịch thuật là một con đường chông gai nhiều cạm bẫy.

Khi bước trên con đường này, tôi có may mắn được nhiều ngọn đèn soi rọi, bạn bè, người thân giúp đỡ, chỉ đường.

Khi tôi học về lý thuyết dịch trong trường ĐH Ngoại ngữ Thanh Xuân, các thầy dạy: “Một tác phẩm dịch dẫu có xuất sắc vẫn chỉ là mặt sau của tấm thảm và trong khi dịch, kiến thức ngoài ngôn ngữ cũng quan trọng như kiến thức ngôn ngữ”. Tại CFIT – Trung tâm Đào tạo biên phiên dịch chuyên nghiệp, bài học đầu tiên của chúng tôi là: “Người dịch là kẻ vô hình và phải luôn thận trọng khi dịch”. Sang Pháp, gặp dịch giả Trần Thiện Đạo, ông dặn dò: “Người dịch không được tự xưng là đồng tác giả và phải luôn luôn khiêm tốn”.

Với những lời dặn dò ấy, tôi đã làm việc nghiêm túc và thận trọng. Vận dụng tối đa kiến thức của mình với ý thức tôn trọng tác giả, người đọc và biết rằng lúc nào mình cũng có thể sai. Sau mười tháng làm việc như thế, tác phẩm dịch đã ra đời và giải thưởng này chính là phần thưởng cao quý cho những nỗ lực ấy.

Thưa quý vị,

Xin được gửi lời cảm ơn chân thành và lời chúc mừng nồng nhiệt tới tác giả Eric Emmanuel Schmitt vì đã cống hiến cho độc giả một tác phẩm hay và nhiều ý nghĩa như thế. Từ những chất liệu thông thường, từ những thông điệp không mới, bằng tài năng và sự điêu luyện của mình, ông đã mang tới một tác phẩm mà đọc rồi người ta khó có thể quên, khó có thể không suy ngẫm.

Những người góp phần vào thành công của cuốn sách dịch này rất nhiều, gia đình, thầy cô, người thân, bè bạn,…không thể kể hết được. Xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả mọi người.

Có một điều chắc chắn là, dù có được nhận giải thưởng này hay không, dịch thuật vẫn là con đường tôi lựa chọn và say mê. Hy vọng quý vị vẫn sẽ dành thời gian và sự yêu mến cho các tác phẩm dịch tới đây của tôi nói riêng và văn học dịch nói chung.

Xin trân trọng cảm ơn.

Hà Nội, tháng 10 năm 2008

Nguyễn Đình Thành

 
Picture
Cách đây đúng 40 năm, ngày 8 tháng 5 năm 1970 một sự kiện làm chấn động giới nghệ thuật cũng như báo giới Sài Gòn lúc bấy giờ đã diễn ra tại trụ sở hội Hồng thập tự Sài Gòn: một tác phẩm làm từ xương, mảnh sọ, ruột người lên án tội ác chiến tranh đã được treo trang trọng tại một triển lãm quốc tế. Vài giờ trước khi tổng thống miền Nam đến khai mạc triển lãm, bức tranh đã bị buộc phải gỡ xuống và đến tận bây giờ không ai biết số phận của nó ra sao.

Một tác phẩm kì lạ…

Mọi chuyện bắt đầu vào những năm 1960 khi Phạm Văn Hạng còn làm phóng viên chiến trường Quảng Trị. Hàng ngày, ông lăn lộn ‘‘cày xới’’ trên bãi chiến trường với chiếc máy quay  nặng gần chục kí trên vai và làm việc như một phóng viên tự do cho nhiều hãng thông tấn nước ngoài. Một buổi sáng, khi nắng sớm vừa lên, xuyên qua hàng rào dây thép gai chiếu lên bãi chiến trường mênh mông xác người, chẳng còn phân biệt được đâu là thân lính Mỹ, người lính Bắc Việt, tay chân người lính Cộng Hòa. Lòng người nghệ sỹ trẻ rung lên một nỗi xót xa cho thân phận con người và ghê tởm cuộc chiến này. Ông tự nói với mình: ‘‘là một thằng nghệ sỹ mình phải làm một cái gì đó để góp phần ngăn thảm kịch này lại’’. Ý tưởng về một bức tranh bằng chính xương thịt của những nạn nhân của cuộc chiến đã ra đời như thế.

Là phóng viên chiến trường, việc thu thập ‘‘tư liệu sáng tác’’ của ông không mấy khó khăn. Ông lượm lặt những mảnh vụn chiến tranh chuẩn bị cho tác phẩm của mình. Ông làm một bể phoóc-môn lớn đặt ngay trong căn nhà nhỏ của mình, lúc đó vợ ông đang có bầu đứa con đầu. Ban đầu vợ ông cũng sợ nhưng sau cũng quen dần. Ông ‘‘tha về’’ đủ thứ: khi là mẩu xương, lúc là viên đạn, vỏ đạn, dây thép gai, mảnh hộp sọ,…Người bạn thân của ông là bác sỹ chiến trường Lê Bá Dũng thỉnh thoảng cũng ‘‘cho’’ ông vài vật lạ gắp ra từ cơ thể những chiến sỹ tử nạn. Năm 1970, ông đã kịp hoàn thành tác phẩm hội họa đầu tay của mình vào đúng dịp triển lãm quốc tế của hội Hồng thập tự Sài Gòn sau tám năm suy nghĩ và sáng tác. Triển lãm này quy tụ các họa sỹ công giáo đến từ 12 quốc gia trên thế giới. Báo Hòa Bình số ra ngày 12 tháng 5 năm 1970 đã miêu tả : ‘‘trong bức tranh này ông không vẽ một nét nào mà chỉ ghép những xương sọ, những đùi người còn nguyên thịt, những khúc ruột lòng thòng nằm vắt trên sợi dây kẽm gai thứ thiệt, những bàn tay dập nát, những mảnh lựu đạn, đuôi bích kích pháo, trên một tấm ván mà ông nhặt được ở một đồn nghĩa quân ở Quảng Trị. Ông chỉ tô lên tấm ván một nền sơn màu đỏ hực chan hòa với màu xám nghịt tượng trưng cho khói lửa’’. Sự thảm khốc và ghê rợn của cuộc chiến được hoàn nguyên trên tấm ván khổ 1x1,2m không phân biệt quốc tịch, thành phần tôn giáo, đã chết hay còn sống. Hội Hồng thập tự Pháp còn vận động để mang bức tranh đi triển lãm khắp thế giới.

…gian truân một chặng đường

Sau khi hoàn thành bức tranh tại Quảng Trị, Phạm Văn Hạng đặt tên cho bức tranh là S.O.S. Việt Nam và dự định trưng bày tác phẩm trong triển lãm của hội Hồng thập tự. Nhưng làm thế nào để mang được bức tranh về Sài Gòn khi không có chuyến bay thẳng nào từ Quảng Trị về Sài Gòn và chuyện mang bức tranh này lên máy bay dân sự là không thể. Bằng tài xoay xở khéo léo của mình, Phạm Văn Hạng đã ‘‘xoay’’ được một chuyến trực thăng chuyên chở xác lính Mỹ từ Quảng Trị về Huế. Từ phi trường, ông mang thẳng bức tranh về nhà Trịnh Công Sơn để ‘‘gửi’’ ở đây một hôm. Nhạc sỹ họ Trịnh đã thốt lên khi nhìn thấy bức tranh : ‘‘Trời ơi, má tao nhìn thấy cái này chắc bả ngất luôn đó !’’. Sau rồi bức tranh cũng được giữ tại nhà Trịnh Công Sơn trước khi được chuyển về Sài Gòn. Chính Trịnh Công Sơn là người đề nghị đổi tên bức tranh là Chứng tích bởi theo ông nó ‘‘nói’’ được nhiều hơn và mang tính triết lý hơn. Cũng chính Trịnh Công Sơn là người giới thiệu tác phẩm này cho giới văn nghệ sỹ tại Sài Gòn thời bấy giờ. Sau một chuyến bay quân sự nữa, bức tranh được về tới Sài Gòn. Tại địa điểm triển lãm, tác phẩm được trưng bày trong một phòng riêng trong phần triển lãm mang tên Giới tuyến Che trước bức tranh là một tấm màn đen với dòng chữ: Hãy vén lên nếu bạn muốn xem. Tranh treo từ đêm hôm trước khai mạc triển lãm, bạn bè nghệ sỹ và báo giới biết tin đã đến rất đông để xem trước. Gian hàng chưa khai mạc nhưng người xem đã đến xem chật kín. Sáng  hôm sau, có lẽ tin về bức tranh đã tới phủ đầu rồng nên trước khi tổng thống miền Nam Nguyễn Văn Thiệu đến cắt băng khai mạc triển lãm, dược sỹ La Thành Trung đại diện ban tổ chức đã cho gỡ xuống vì lý do ‘‘không đảm bảo vệ sinh’’ cho dù triển lãm đã được bộ trưởng văn hóa cho phép tổ chức. Hàng trăm người xem triển lãm đã hết sức tức giận. Có báo đã giật tít Hội chợ suýt nổi loạn vì một bức tranh bị tịch thu. Báo chí và dân biểu Sài Gòn thời ấy đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ hành động này, thậm chí có dân biểu còn yêu cầu đưa vụ việc ra nghị viện. Có báo lại đặt câu hỏi: bức tranh đã bị giấu đi vì có người đã trả giá tới 1 triệu đồng tiền Miền Nam thời bấy giờ và các đại sứ quán Mỹ, Đức, hội Hồng thập tự Việt Nam và hội Hồng thập tự Pháp đều ngỏ ý muốn mua, có lẽ có điều gì khuất tất ở sau[1]. Dù họa sỹ và báo giới phản ứng kịch liệt và Ban tổ chức hứa sẽ trả lại bức tranh sau khi triển lãm đã diễn ra, nhưng bức tranh có một không hai ấy đã vĩnh viễn biến mất. Tuy nhiên, tác phẩm đã đi vào lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam và tiếng nói phản chiến mạnh mẽ ấy vẫn còn mãi.

Ngày nay, người ta thường biết đến Phạm Văn Hạng như tác giả của nhiều công trình điêu khắc lớn, điêu khắc chân dung văn nghệ sỹ, nhà khoa học và nhà chính trị hàng đầu Việt Nam, biết đến vườn tượng của ông ở Đà Lạt, nhưng ít người biết đến một Phạm Văn Hạng táo bạo và rực lửa của năm 1970. Ngày 8 tháng 5 năm nay, ông sẽ lên đường triển lãm tại nhà Văn hóa Việt house tại Đức cùng nhà thơ Nguyễn Duy, KTS Vũ Đại Hải và họa sỹ Nguyễn Thành Long, mang đến nước bạn hình ảnh của một Việt Nam 40 năm sau cuộc chiến.

Hà Nội, 4 tháng 5 năm 2010

Nguyễn Đình Thành


[1]
Báo Độc Lập số ra ngày 13 tháng 5 năm 1970, trang 3 / báo Sài Gòn Mới ra ngày 11 tháng 5 năm 1970.